Đôi nét lịch sử chùa Bình

   GIỚI THIỆU CHUNG

Chùa Quang Minh, còn gọi là Bình Tự (chùa làng Bình), ngày nay tọa lạc tại làng Bình, thôn Quyết Thắng, xã Bình Lục, tỉnh Ninh Bình. Trước đây từng là một trong những ngôi chùa cổ kính và linh thiêng của vùng đất thôn Bình xã Ô Mễ, tổng Ô Mễ, mang đậm giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật tâm linh. Do Phật giáo xuất hiện tại vùng đất Trấn Sơn Nam cổ vào thời nhà Lý thế kỉ XI-XII (năm 1010-1225) tại chùa Long Đọi Sơn (chùa Đọi) là một trong những trung tâm Phật giáo lớn của vùng Đồng bằng nam sông Hồng thời đó, hiện giờ còn lưu giữ rất nhiều hệ thống tượng thờ, đồ thờ, còn nguyên vẹn “Bia Sùng Thiện Diên Linh” với nội dung sâu sắc đã được Nhà nước công nhận là bảo vật quốc gia, do đó phần lớn tất cả các chùa trên địa bàn cũng đều lần lượt xuất hiện sau thời điểm này không lâu trong đó có chùa Quang Minh (chùa Bình). Cũng bởi lý do chùa Đọi được xây dựng sớm nên đây là nơi tiếp nhận tu học của đông Tăng nhân trong vùng cùng thời điểm có những lúc số lượng người lên đến hàng trăm vị, Triều đình nhà Lý bao gồm Vua cùng các viên Quan cũng như nhân dân giác ngộ, có Phật tính cao nên Phật giáo được coi như quốc đạo tầm ảnh hưởng rất lớn đến văn hoá, giáo dục, phong tục tập quán, hoạt động đời sống xã hội, chính trị của Đại Việt. Các Chùa trở thành trung tâm văn hoá, nơi học tập, truyền bá giáo lý Phật đà, là nơi tổ chức các nghi lễ, lễ hội… . Do vậy, chúng ta cũng có những cơ sở để tạm khẳng định rằng Chùa Quang Minh (chùa Bình) là một trong các Chùa có từ lâu đời, xuất hiện ở thời Lý và được chư Tăng (Tăng sĩ) chùa Đọi xuất chúng đi xây dựng, kiến tạo thực hiện việc “Hoằng dương chính pháp, lợi lạc nhân sinh” tại đây.

  1. Ý NGHĨA VỀ TÊN GỌI CỦA CHÙA

Chùa Quang Minh – Chùa Bình (tỉnh Hà Nam cũ) nay tỉnh Ninh Bình, tên của chùa xuất phát từ tên gọi của làng, “Làng Bình” mặc dù không có thông tin cụ thể về thời điểm thành lập nhưng với các bằng chứng khảo cổ và lịch sử cho thấy khu vực này đã có cư dân sinh sống từ hàng nghìn năm trước, với truyền thống văn hóa và kinh tế phong phú, các nghiên cứu khảo cổ học cho thấy vùng đất Bình Lục nói chung đã có người Việt cổ sinh sống từ thời kỳ văn hóa Đông Sơn, cách đây khoảng 2.500 năm do vậy mà làng Bình cũng xuất phát điểm từ rất sớm. Từ “Bình” có nghĩa là bằng phẳng, bình đẳng, hoà bình, bình an, yên tĩnh, bình lặng, … . Lấy chữ “Bình” đặt tên cho làng, có nghĩa chỉ sự mong mỏi của toàn thể nhân dân sinh sống ở một ngôi làng bình yên, đất đai bằng phẳng, hướng đến sự bình đẳng, cuộc sống ấm no, hoà bình thịnh trị.

Theo những tài liệu được ghi chép lại và qua lời kể của các cụ cao niên trong vùng thì Quang Minh Tự, tên chùa Quang Minh mang ý nghĩa rất sâu sắc trong ước nguyện của người dân thôn Bình, trong văn hóa Phật giáo, cụ thể: “Quang (光) có nghĩa là: sáng, ánh sáng, vầng sáng; Minh (明) có nghĩa là: sáng, rõ ràng; Kết hợp lại, Quang Minh (光明) có thể hiểu là: “Ánh sáng rực rỡ”, “ánh sáng trí tuệ”, “vầng sáng rõ ràng”, hoặc “hào quang tâm linh”. “Quang Minh” thường tượng trưng cho: “Ánh sáng trí tuệ của Phật pháp, soi rọi vào tâm trí của con người, xua tan đi vô minh, tà niệm, trí tuệ của sự giác ngộ, giúp cho chúng sinh nhận ra được chân lý hay tên gọi này thường gắn với các Đức Phật hoặc Bồ Tát có năng lực chiếu sáng tâm thức, như đức Phật A Di Đà Quang Minh Vương, đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, v.v.”. Chư vị Tổ sư khi lập Chùa đã đặt danh tự “Quang Minh” làm tên Chùa nhằm hướng đến các giá trị mục đích sâu sắc: “Trở thành nơi lan tỏa ánh sáng Phật pháp đến với chúng sinh, là trung tâm tu học, soi sáng trí tuệ, đạo đức cho cộng đồng, gợi nhắc sự thanh tịnh, sáng suốt, và giác ngộ trong đời sống tâm linh”.

SỰ KIỆN CỦA CHÙA VÀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ

  1. Thời kì Thực dân Pháp xâm lược cùng chế độ Phong kiến

Trong lịch sử phát triển, xây dựng và bảo vệ đất nước: Bình Lục là mảnh đất giàu truyền thống đấu tranh bất khuất kiên cường, mảnh đất địa linh sinh nhân kiệt, có lịch sử truyền thống văn hóa lâu đời như: Khu Di tích Quốc gia Đình Chùa Cổ Viễn (Hưng Công); Đình Nhân Trai; Đình Quang Trung; Đình An Bài; Chùa Nội (Đức Long tự); chùa Hoa Lâm (Đồng Du Trung); Chùa Quang Minh (chùa Bình) …

Chùa Quang Minh (chùa Bình) cũng như nhiều ngôi chùa làng quê khác của Vùng duyên hải Bắc bộ, được Chư Tăng cùng nhân dân xây dựng để làm nơi thờ cúng, nơi diễn ra các hoạt động tín ngưỡng tâm linh, nơi nuôi dưỡng tâm hồn bản sắc văn hóa dân tộc. Có thể nói, ngôi chùa là nơi tách biệt khỏi ồn ào, thị phi của thế gian, người ta đến chùa để tĩnh tâm, thiền định, và tìm lại sự an yên trong tâm hồn; cũng là nơi con người trở về với chính mình, không chỉ để lễ Phật, cầu nguyện, mà còn để học giáo lý, suy ngẫm về lẽ sống, tu dưỡng đạo đức, gieo trồng hạt giống từ bi, trí tuệ, nơi gieo mầm thiện lành và giác ngộ. Cũng là nơi người dân thể hiện niềm tin vào Phật, Tổ tiên và những điều tốt đẹp, tạo nên sự gắn kết cộng đồng qua lễ hội, tụng kinh, chấp tác, làm công quả… nơi con người hướng về cội nguồn tâm linh. Cho dù cuộc sống có xô bồ đến đâu, nhiều người vẫn chọn về chùa như một cách “giải độc tâm hồn, chữa lành vết thương”, luôn cảnh tỉnh, nhắc nhở mỗi chúng ta về sự vô thường, buông bỏ, và lòng biết ơn. Chùa là – nơi ta có thể bỏ xuống gánh nặng, đi nhẹ hơn trong hành trình sống.

Chùa Quang Minh là nơi chứa đựng những tinh hoa, biểu hiện sâu đậm về bản sắc văn hóa của dân tộc, của làng quê thôn Bình, xã Ô Mễ nay là xã Đồng Du, Bình Lục, Hà Nam, là sản phẩm văn hóa tinh thần làng xã, nó phản ánh những tâm tư, tình cảm, sự trăn trở, nỗi suy tư và niềm khát vọng của người dân vùng nông thôn.

Theo như tài liệu còn lưu giữ đã được nghiên cứu thì đạo Phật vào xã Ô Mễ, xã Đồng Du, An Bài, … từ thời kỳ nhà Lý (1010-1225), do vậy từ dữ kiện này chúng ta cũng có thể khẳng định rằng chùa Quang Minh cũng được Chư Tăng cùng nhân dân xây dựng trong khoảng thời gian này. Các cụ xưa có câu: “Chùa là bùa làng” nên cứ khi có người dân di chuyển tới sinh sống tạo thành một cộng đồng dân cư làng xã, chế độ công xã nông thôn là khi ấy sẽ xuất hiện ngôi thờ Phật cầu bình an, chỗ dựa về tinh thần, tâm linh cho bà con nhân dân, thể hiện rõ đặc điểm làng xã Việt Nam nhất là vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, là những nơi hoạt động cách mạng sôi nổi, cung cấp sức người sức của cho đất nước đồng thời là nơi giữ gìn các giá trị văn hoá truyền thống, không để các bị giặc ngoại xâm các thời kì đồng hoá, biểu hiện đầy đủ của nông thôn cơ bản là khép kín với nền kinh tế tự túc.

Trước thời kì 1903, khi chưa có dòng sông Sắt thì xóm Quang Trung (Hưng Công, ngày nay xã Bình An) cùng với làng Bình (Đồng Du, ngày nay xã Bình Lục) là một thôn, có tên là thôn Bình cùng hai thôn nữa là thôn Phùng, thôn Ô Lữ thuộc xã Ô Mễ. Rất nhiều những văn bia cổ ở các Chùa, Đền, Đình, … có ghi biên chép lại rằng: “Nơi nào nước đẹp, núi cao, đều có đền Thần Chùa Phật”, đặc điểm địa lý Chùa Quang Minh cũng khá đặc biệt, phía Tây đất ruộng cấy của Chùa to rộng vuông vắn, diện tích rất lớn khoảng 6 mẫu (theo lời kể truyền lại của các cụ cao niên), cùng trong khuôn viên đó lại xuất hiện giếng tròn tự nhiên cùng gò đất cao biểu trưng cho 3 vùng đất cơ bản tại Việt Nam đó là: “Rừng, Biển, Đồng bằng” quy tụ lại hay cũng lại có quan điểm cho rằng: “Ruộng vuông được biểu tượng cho đất, giếng tròn biểu tượng cho trời, gò đất biểu tượng là nơi đất tốt để nhân dân sinh sống”. Nhưng cũng lại có những quan niệm của các cụ cao niên cho rằng: “Ruộng vuông giống như là quyển sách, giếng tròn giống như nghiên mực, gò đất cao giống như là chiếc bút” cho nên trong lịch sử địa lý mới đề là: “Đất nhất bút, nhất nghiên”, ý nói rằng đây sẽ là vùng đất học, giàu truyền thống khoa bảng, thi cử đỗ đạt.

Thời điểm xây dựng Chùa khi ấy rất được quan tâm và được nhân dân xa gần, quan lại trong vùng ủng hộ tiền của và sức lao động cho nên Chùa được tôn tạo rất khang trang tố hảo, gần như nhất vùng. Các cụ cao niên có kể lại rằng chùa cổ xưa có kiến trúc kiểu chữ Đinh, bít đốc, giật cấp, mang phong cách kiến trúc trạm đục cổ truyền, hệ thống tượng Phật, Bồ tát, tòa Cửu long, Phật đản sinh, Thánh Hiền, Hộ Pháp, chúa Đức Ông, … rất đầy đủ được điêu khắc tinh sảo, nghệ thuật kiến trúc đặc trưng, các công trình xây dựng toàn bằng gỗ lim cột to, đường kính hơn xải tay 1 người ôm, các công trình tâm linh được kết hợp hài hoà, thiết chế Chùa- Đình- Phủ Mẫu rất đầy đủ, tạo thành một quần thể tâm linh như chân kiềng vững trãi phục vụ nhu cầu tế lễ, chiêm bái, cầu cúng của người dân bao gồm có: Tam Quan Ngoại, Tam Quan Nội, Tiền Đường, nhà Tả vu- Hữu vu, Tam Bảo, Nhà Tổ, Nhà Khách, Khu Vườn Tháp, Đình, Phủ Mẫu, … cùng các công trình phụ trợ rất rộng lớn, to đẹp khang trang có tiếng trong vùng.

Quần thể Chùa- Đình- Phủ Quang Minh (Làng Bình) trước năm 1858 có quy mô và diện tích rất lớn, có nhiều giá trị văn hoá di tích nghệ thuật nhưng sau khi Thực dân Pháp vũ trang xâm lược Việt Nam, triều đình phong kiến nhà Nguyễn bất lực trong việc tổ chức cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, cam chịu thất bại khiến cho lịch sử nước ta, nhân dân, nền văn hoá, giáo dục, y tế, … các công trình giá trị tâm linh Chùa- Đình- Phủ, … rơi vào thời kì khủng hoảng, đen tối.

Trải qua thăng trầm của lịch sử, bom đạn của chiến tranh, thời cuộc thay đổi và điều kiện kinh tế khó khăn, một thời gian dài hơn nửa thế kỉ (hơn 50 năm) dân làng không có chùa thờ Phật, nền xưa đất cũ cũng chẳng còn, chỉ còn lại hệ thống tượng thì được gửi thờ tự tại Đình làng Quang Trung (nay thuộc Hưng Công, xã Bình An). Năm 2004 bằng tâm thành kính, lòng mến mộ đạo Phật, các cụ Ngô Kim Thuỷ, Ngô Kim Hội, … đã tín tâm làm giấy tờ xin các cấp lãnh đạo chính quyền từ xã tới huyện chấp thuận cho dân làng được lập lại nơi thờ Phật tại nền xưa đất cũ cho nhân dân lễ bái, tu học. Năm 2006 khởi công xây dựng lại ngôi cổ tự nhỏ nhỏ theo kết cấu chữ đinh, có tiền đường 3 gian bên dòng sông sắt với diện tích khi ấy hơn 200m2.

Là một ngôi chùa làng nhưng chùa Quang Minh- chùa Bình không lúc nào vắng tiếng chuông ngân của các sư trụ trì làm cho cảnh chùa đông vui ấm cúng. Các cụ sư từ xa xưa đời nối đời ở đây đều có lòng mộ đạo, học rộng biết sâu, uyên thâm về Phật pháp, được vua quan, nhân dân gần xa kính trọng.

Có những nhà sư yêu nước, còn tham gia hoạt động cách mạng như Đại lão Hòa thượng Thích Quang Ưng, tức Nguyễn Viết Ưng. Sinh năm Mậu Tý (1888), là chàng trai dòng họ Nguyễn Viết chi thứ 3, đời thứ 6 tại xóm 6, xã An Bài, tổng Ngô Xá xưa kia nay là thôn An Bài, Đồng Du, xã Bình Lục, tỉnh Ninh Bình. Sư cụ Thích Quang Ưng (thế danh: Nguyễn Viết Ưng) sinh ra trong một gia đình thuần nông, tín tâm Tam Bảo, nhiều đời theo Phật, có thân phụ là cụ ông: Nguyễn Viết Đốc (đời thứ 5 họ Nguyễn Viết), thân mẫu là cụ bà: Hoàng Thị Thập, ông bà sinh được sư cụ và hai người em gái là Nguyễn Thị Nhu (đã mất lúc nhỏ) và Nguyễn Thị Nho đã đi lập gia đình, yên bề gia thất.

Năm 1900 xuất gia tu hành tại chốn tổ đình chùa Long Đọi Sơn- Diên Linh Tự (chùa Đọi), rồi Ngài vân du sam học tại các chốn Tổ đình lớn của Phật giáo như: Vĩnh Nghiêm, chùa Hương, Hàm Long, chùa Cả (Thánh Ân Tự),…

Năm 1910 Ngài về trụ trì chùa Quang Minh- thôn Bình xã Ô Mễ, tổng Ô Mễ sớm chiều thời khoá tụng niệm, thỉnh Đại hồng chung cầu nguyện quốc thái dân an, nhân sinh lợi lạc. Từ năm 1918, Đại lão Hòa thượng đã tập hợp quần chúng, tổ chức nhiều lớp dạy học chữ Nôm và chữ Quốc ngữ cho nhân dân, tuyên truyền văn hóa nếp sống mới như cách ăn mặc gọn gàng, xưng hô chuẩn mực, cư xử thuận hòa …

Năm 1921, thấy được nỗi khổ cùng cực, một cổ đôi tròng, hàng trăm gia đình bần cố nông không có đất họ phải đi làm thuê cuốc mướn, mò cua bắt ốc để sống qua ngày, nhiều hộ gia đình phải bỏ làng xóm ra đi khắp nơi tìm kế sinh nhai, đi làm phu mỏ than, đồn điền cao su Nam Bộ, ngày ra đi không có ngày trở lại cho nên Ngài đã cổ vũ tinh thần yêu nước, cùng nhân dân kéo đến tri huyện Phố phủ Bình Lục biểu tình, đòi đất canh tác và đã phá kho lấy được hàng trăm thúng thóc chia cho nhân dân.

Năm 1925 Ngài đi sam phương ra chốn tổ Yên Tử tu học hạ 3 tháng, được tiếp cận với tư tưởng chủ nghĩa Mác- Lê nin và đường lối cứu nước giải phóng dân tộc của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã được các hội viên Hội Việt Nam cách mạng thanh niên- học trò xuất sắc của Người truyền bá về trong nước khu vực Đông Triều- Uông Bí, tiếp đến Ngài lại chịu sự ảnh hưởng của phong trào cách mạng vùng mỏ, lại được giao lưu tiếp cận cùng Đại lão Hoà thượng Thích Thanh Bình, thế danh Nguyễn Đình Khúc là người làng Gạo- huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định (1890-1963)- Trụ trì chùa Nhuệ Hổ (chùa Quảng Phúc), Đông Triều, Quảng Ninh- là người năng nổ hoạt động cách mạng tại vùng Đông Triều, Kinh Môn, Chí Linh, …  cũng đã được công nhận là cán bộ Tiền khởi nghĩa năm 2014, với sức mạnh của tuổi trẻ, Hòa thượng đã sớm giác ngộ ý chí cách mạng, trong 3 tháng hạ Ngài đã tích cực tham gia các phong trào đấu tranh vùng mỏ nhằm học hỏi kinh nghiệm phương thức hoạt động của các tổ chức hội nơi đây.

Sau khi đi học hạ ở chốn tổ Yên Tử về, với những tư tưởng chủ nghĩa Mác Lê nin, sự giác ngộ cách mạng từ phong trào đấu tranh vùng mỏ, lại được gặp gỡ trực tiếp hội viên Hội Việt Nam cách mạng thanh niên- học trò xuất sắc của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc truyền bá, Ngài khi trở về đã hoạt động tích cực tại thôn Bình, thôn Phùng, thôn Ô Lữ, Ô Mễ, An Bài, Hưng Công, … một mặt tuyên truyền tư tưởng cách mạng, nêu lên sự tàn độc của Thực dân, thủ đoạn nham hiểm của phong kiến, những việc làm thất đức mất nhân tính của bọn địa chủ cường hào, … một mặt Ngài tích cực chăn nuôi, làm ruộng, tăng gia sản xuất và giúp đỡ nhiều người có hoàn cảnh cơ nhỡ, khó khăn.

Từ năm 1928, cao trào nông dân, công nhân đấu tranh chống thực dân Pháp sôi sục khắp mọi miền thành thị thôn quê. Đại lão Hòa thượng đã bí mật liên hệ với các hào phú trong vùng, cùng một số chí sỹ yêu nước ở địa phương đã góp vàng, bạc để mua vũ khí phương tiện thô sơ để ủng hộ cho phong trào cách mạng. Đại lão Hòa thượng đã trực tiếp cùng công nhân các nhà máy Chai, máy Tơ, máy Dệt, …, nông dân khắp nơi tham gia biểu tình chống thuế thân, thuế điền, thuế chợ,….

Tháng 05 năm 1930, Đại lão Hòa thượng trực tiếp tham gia cuộc mít tinh tại chợ An Cước, hoà cùng dòng người rải truyền đơn tố cáo chính sách hà khắc của Thực dân Pháp và Phong kiến, cùng nhân dân đấu tranh nhằm lật đổ chính quyền phản động, trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng do Đảng Cộng Sản lãnh đạo, Thực dân Pháp đã mở rộng chiến dịch khủng bố rất ác liệt, chà đi sát lại nhằm tiêu diệt ý chí cách mạng của nhân dân ta. Hàng trăm cán bộ cách mạng và quần chúng tích cực năng nổ của Đảng ta đã bị bắt. Nhiều đồng chí phải tạm thời lui về ở ẩn nằm vùng, chờ đợi thời cơ chín muồi sẽ lại hoạt động.

Sáng ngày 22 và 25 tháng 08 năm 1930, Ngài đã cùng hàng nghìn nông dân xã Ô Mễ, Đồng Du kết hợp với Hưng Công, Ngọc Lũ, … đã cùng nhau kéo lên huyện đường đấu tranh đòi xoá bỏ Hội đồng cải lương, đòi dân sinh, dân chủ, giảm sưu, giảm thuế, buộc tri huyện Bình Lục phải nhượng bộ những yêu sách của nhân dân.

Ngày 20 tháng 10 năm 1930, Đại lão Hòa thượng đã trực tiếp tham gia cuộc đấu tranh biểu tình với hàng ngàn quần chúng nhân dân, tại Đình Triều Hội, xã Bồ Đề, tiếng trống lệnh nổi lên, pháo nổ giòn giã, các tài liệu được Đại lão Hoà thượng cho in ấn tại chùa Quang Minh như: “Đường Kách Mệnh, cờ búa liềm, truyền đơn, băng rôn khẩu hiệu biểu ngữ”, được đưa ra phát cho quần chúng nhân dân, hàng ngàn người háo hức nghe đồng chí Ngô Gia Bảy- Ủy viên dự khuyết Tỉnh Ủy Hà Nam, đại diện cho Đảng đứng lên diễn thuyết, tố cáo tội ác của bọn đế quốc phong kiến, kêu gọi quần chúng đứng lên theo Đảng làm cách mạng, giải phóng quê hương, đất nước được sự hưởng ứng đông đảo với hàng ngàn cánh tay giơ lên đồng thanh hô vang khẩu hiệu: “Đả đảo Pháp đế quốc chủ nghĩa; Diệt trừ phong kiến chế độ; Ủng hộ Nghệ Tĩnh đỏ; Ủng hộ nông dân Tiền Hải; Ủng hộ nước Nga Xô Viết; Việt Nam Cộng sản Đảng vạn, vạn tuế”, kêu gọi công nhân ở các nhà máy và nhân dân lao động đấu tranh chống áp bức của đế quốc thực dân. Nhiều lần, Ngài bị sai nha, chức dịch của chế độ phong kiến và mật vụ, mật thám của Pháp bắt bớ, đánh đập tra tấn nhưng Ngài vẫn nhẫn nhục chịu đựng, kiên trung lập trường yêu nước, giữ gìn bí mật bảo vệ cho cách mạng.

Đồng chí Ngô Gia Bẩy- Uỷ viên dự khuyết Tỉnh Uỷ Hà Nam là người về xã Ô Mễ hoạt động tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhân dân, xây dựng cơ sở của Hội. Sau một thời gian đồng chí đã lập gia đình cùng bà Nguyễn Thị Thuẩn (bà Thuẩn là con gái của ông chú sư cụ Thích Quang Ưng, Đại lão Hoà thượng là con của ông Nguyễn Viết Đốc là anh trai ruột của bố bà Nguyễn Thị Thuẩn, nên trong gia phả thì cụ là anh trai đời thứ 2 của bà Thuẩn), do vậy mà sư cụ Thích Quang Ưng và đồng chí Ngô Gia Bẩy có mối quan hệ mật thiết trong gia đình, cùng nhau hoạt động cách mạng ngầm.

Bà Đào Thị Lý lấy ông Nguyễn Viết Hưởng sinh ra được 1 người con gái, sau đó ông Hưởng mất sớm, sau khi để tang thờ chồng 7 năm thì bà Lý tái giá lấy ông Ngô Kim Lệ là trai thôn Bình, sư cụ lại về trụ trì sinh hoạt tại chùa Quang Minh (chùa Bình), nên bà Lý đã nhất tâm ra chùa phụ giúp công việc, chấp tác tại chùa vì sư cụ là ông Chú (ông Hưởng là con trai đời thứ 7 dòng họ Nguyễn Viết), do đó ông Hưởng là hàng cháu sư cụ Thích Quang Ưng, như vậy bà Lý tính ra là cháu dâu sư cụ.

Ngài đã chuẩn bị chu đáo lương thực, địa điểm họp trong chùa để nuôi dưỡng cán bộ cách mạng có nơi liên lạc đi về, hội họp. Ngài được tổ chức Đảng giao nhiệm vụ chuyển thư tín, liên lạc của cán bộ biệt phái thuộc Tỉnh uỷ Nam Định là đồng chí Lê Công Thanh, Vũ Khế Bật, Trần Quang Tặng với lực lượng nòng cốt của ta trong các xã Ô Mễ, Đồng Du, An Cước, An Bài, Hưng Công, Ngọc Lũ, Tràng Duệ …

Tháng 7 năm 1936, thành lập Mặt trận Nhân dân phản đế Đông Dương sau đó đổi là Mặt trận dân chủ Đông Dương đã tác động mạnh vào các tầng lớp nhân dân, công nhân, nông dân, tiểu thương, tiểu chủ, học sinh, … cao trào nông dân huyện Bình Lục đấu tranh chống thực dân Pháp, Đại lão Hòa thượng đã cùng với các cụ Sư trụ trì các chùa Nội, chùa Phùng, Ô Lữ, Đồng Du Trung, An Bài, Nhân Trai, Cổ Viễn, chùa Thưa, chùa Bùi … cùng một số vị sư khác của huyện Bình Lục, huyện Duy Tiên, Lý Nhân, Phủ Lý, Thanh Liêm, Hưng Hà (Thái Bình), Quỳnh Phụ (Thái Bình), … tham gia cùng các tổ chức Đảng phái, giai cấp, đoàn thể chính trị, tôn giáo khác nhau để đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ, dân sinh như: Tự do hội họp, tự do ngôn luận, tự do báo chí xuất bản, tự do đi lại, ngày làm việc 8 giờ, … liên tục ủng hộ lương thực, thuốc men và tiền mua vũ khí, đạn dược cho cách mạng.

Bọn phong kiến thực dân và bè lũ tay sai, chỉ điểm ở địa phương đã phát hiện Ngài cất chứa chất nổ, mã tấu, vũ khí lớn, lại hay dựa vào các khoá lễ để tuyên truyền đường lối, tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc nên chúng đã khủng bố gắt gao, bắt trói và đánh đập dội nước tra tấn treo ngược, rồi dỗ ngon ngọt cho nhiều bạc hoa xòe và tiền Đông Dương nhưng Đại lão Hòa thượng đã không nhận và nhất nhất không chịu khai báo gì. Chúng bực tức giam giữ Ngài vài ngày sau đó thì chúng phải phóng thích thả tự do cho Ngài về.

Năm 1939, Đại lão Hòa thượng đã trực tiếp cùng với các cụ sư trụ trì các chùa Cổ Viễn, chùa Thọ, chùa Nội, chùa Đồng Du Trung, chùa La Hào, Ô Lữ, Phùng, Nhân Trai, chùa Bùi, chùa Thưa, … tham gia vận động thành lập đội Tăng già cứu quốc chi đội Bình Lục. Nhằm mục đích tập hợp Tăng Ni, Phật tử đồng bào Phật giáo theo đường hướng cách mạng, đề cao truyền thống yêu nước, tham gia bảo vệ Tổ Quốc.

Từ năm 1940 đến tháng 2 năm 1945, tại chùa Quang Minh, Đại lão Hòa thượng là cầu nối liên lạc thông tin giữa các vùng cách mạng, các đồng chí Tỉnh Uỷ viên Hà Nam như đồng chí Trần Tử Bình, đồng chí Lê Quang Tuấn, Nguyễn Bá Ương, … ở Hưng Công với Ô Mễ, Đồng Du, An Bài, Tràng Duệ… theo đường sông Sắt, liên tục gặp gỡ, hội họp trao đổi phương án, kế hoạch, đường lối hoạt động đấu tranh ở chùa vào ban đêm, có khi địch theo dõi gắt gao phải ở lại mấy ngày tại hậu cung Tam Bảo, phía dưới của tòa Tam Thế có hầm bí mật thông ra gốc đa vườn chùa rồi vườn chuối, bụi rong, vườn riềng sả theo rãnh hào ra bờ sông Sắt mà di chuyển đi tránh sự vây bắt của giặc.

Nhiều lần giặc Pháp, lính khố đỏ, quân chỉ điểm tay sai, phản động đi truy lùng càn quét đàn áp vào chùa, nhưng Ngài vẫn ngồi điềm nhiên tụng kinh gõ mõ, lần tràng niệm Phật, giặc Pháp bắn chỉ thiên, rồi cầm súng lưỡi lê đứng sau dí vào đầu, có khi chúng lấy mác và mã tấu đâm vào chân làm chảy máu nhưng Ngài vẫn điềm nhiên tĩnh toạ như không có chuyện gì, giữ khí tiết sắc thái bình thường.

Từ tháng 6 năm 1943 đến đầu năm 1945, Đại lão Hòa thượng đã cùng các sư cụ chùa Nội, Đồng Du Trung,… vận động các phú hộ, gia đình có điều kiện khá giả phát tâm ủng hộ gạo tiền, thuốc men để phát chẩn cho bà con nhân dân. Đặc biệt, hàng tháng chùa Quang Minh Ngài còn cho tổ chức 5 ngày nấu cháo cứu bần để phát cho nhân dân chống đói tại chùa.

Đồng thời tuyên truyền nhân dân đi theo cách mạng, kháng Nhật chống Pháp giành độc lập tự chủ. Nhiều khi, cán bộ Việt Minh về họp tại chùa bị giặc phát hiện, không sợ nguy hiểm đến tính mạng, Đại lão Hòa thượng đã nhanh trí nhận là Phật tử ở chốn tổ chùa Đọi, chùa Cả (Thánh Ân Tự) ra thăm lễ Phật, nên mọi người được an toàn.

Từ khi về trụ trì chùa năm 1910 cho đến năm 1943, Đại lão Hòa thượng đều tham dự các khóa hạ an cư tại các chốn Tổ đình lớn như: Vĩnh Nghiêm – Đức La, Bổ Đà tỉnh Bắc Giang; chùa Côn Sơn tỉnh Hải Dương, chùa Yên Tử, chùa Cả (Thánh Ân Tự), … . Nơi nào sam học, Đại lão Hòa thượng cũng đều vận động các Sư tham gia cách mạng Việt Minh, giải phóng dân tộc khỏi ách lầm than, nô lệ của chế độ nửa thực dân nửa phong kiến.

Sau khi đặt ách thống trị, Thực dân Pháp xúc tiến ngay chính sách khai thác thuộc địa. Ngoài những thủ đoạn cướp đoạt bằng chính sách kinh tế, thuế khoá nhằm bần cùng hoá nhân dân, chúng thực hiện nhiều chính sách như: ngu dân, mị dân, chia để trị, gây thù hằn mẫu thuẫn lương giáo, … nhằm làm giảm sự phát triển của Phật giáo và tín ngưỡng thờ tự của người dân Việt ta.

Trước những cơ cực mà thực dân Pháp gây ra cho người dân, đất nước ta thì các phong trào đấu tranh, phản đối chống Pháp xâm lược của văn thân, sỹ phu yêu nước liên tiếp được diễn ra, nhưng do hạn chế về con người, công cụ, nhận thức văn hoá, lịch sử, tính chất liên kết nên các phong trào đều thất bại. Dân tộc ta chìm  đắm trong khổ cực, cơ hàn, đêm dài nô lệ. Là một bộ phận của huyện Bình Lục, mảnh đất và nhân dân Đồng Du, cùng quần thể tâm linh thờ tự Chùa- Đình- Phủ Mẫu Quang Minh (làng Bình) cũng nằm trong bối cảnh lịch sử đó.

Năm 1883 thực dân Pháp đánh chiếm Nam Định, đến năm 1890 chúng chia tách thành lập Hà Nam khỏi Nam Định cho dễ bề cai trị, khai thác thuế khoá của dân. Chúng đã phân chia huyện Bình Lục thành 8 tổng gồm 67 xã, trong đó đất Đồng Du thuộc tổng Ngô Xá; thôn Bình thuộc xã Ô Mễ. Thực dân Pháp đã đặt ra hệ thống cai trị từ huyện đến xã rất chặt chẽ, tri huyện nắm toàn quyền từ huyện đến chánh tổng, lý trưởng, trương tuần, trưởng bạ, … Ở xã đứng đầu là Lý trưởng, Phó lý, trưởng bạ, thư kí, trương tuần, và hội đồng hương chính do chánh hội, phó hội đứng đầu. Ở các thôn có tộc biểu, phó lý tiên chỉ, … những vị này có nhiệm vụ thu thuế huy động phu then, thu các khoản đóng góp. Vào những năm 40 của thế kỉ XX trước phong trào chống áp bức của đông đảo các tầng lớp nhân dân, văn thân, sĩ phu, Tăng sĩ yêu nước, … thực dân Pháp đã lập ra tổ chức dân chủ giả hiệu là “Hội đồng cải lương” gồm có: Chánh hương hội, phó hương hội, thư kí, thủ quỹ và một số tộc biểu. Chúng đã triệt để lợi dụng tín ngưỡng của nhân dân vào mục đích chính trị, chia rẽ đồng bào lương giáo, nhằm mục đích phá hoại phong trào cách mạng đấu tranh của quân dân ta từ cơ sở.

Từ năm 1890 chúng chia tách Hà Nam khỏi Nam Định, chia thành các tổng cấu kết hợp với chế độ phong kiến để dễ bề cai trị, áp bức bóc lột, đàn áp các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh tận thu thuế, bắt lính, phu then, các khoản đóng góp, khiến người dân thôn Bình, Phùng, Ô Lữ xã Ô Mễ, hay các thôn Nội, Đồng Du Trung, Ngoại xã Đồng Du hay xã An Bài, … phải sống kiếp nô lệ ngựa trâu, phải chịu nhiều tầng áp bức bóc lột dã man, tàn bạo song chúng lại câu kết với bọn cường hào, địa chủ, tay sai phản động ra sức đàn áp khiến nhân dân trong vùng lâm vào cảnh lầm than tủi nhục, cơm không đủ ăn áo không đủ mặc hay nói cách khác nhân dân ta phải chịu “Một cổ hai tròng”.

Trước những đau khổ mà chúng gây ra nhân dân thôn Bình thuộc xã Ô Mễ nói riêng các thôn xã lân cận trên địa bàn toàn huyện đã hun đúc lên tinh thần cộng đồng dân tộc, một ý thức độc lập tự chủ, tự cường và một hoài bão khát vọng có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc. Từ đó khởi lên tư tưởng đánh đổ đế quốc thực dân giành độc lập dân tộc, đánh đổ địa chủ phong kiến giành ruộng đất cho nhân dân đã trở thành nguyện vọng và nhu cầu bức thiết của người dân thôn Bình xã Ô Mễ.

Thêm vào đó, có sự thúc đẩy tích cực đến từ Phong trào Cần Vương là một cuộc khởi nghĩa vũ trang diễn ra ở Việt Nam vào cuối thế kỷ 19, nhằm chống lại sự xâm lược và chiếm đóng của thực dân Pháp. Phong trào này được khởi xướng từ lời kêu gọi của vua Hàm Nghi, kêu gọi nhân dân và sĩ phu đứng lên cứu nước, bảo vệ triều đình Nguyễn. Phong trào Cần Vương cũng đã tìm đến những cơ sở Phật giáo vận động Chư Tăng Ni, tín đồ Phật tử cùng nhân dân tham gia yểm trợ cho công cuộc đấu tranh khởi nghĩa vũ trang. Các Chùa chiền, cơ sở tự viện Phật giáo trở thành cơ sở kháng chiến và Tăng sĩ không ngần ngại đóng góp phần mình vào công trình cứu nước.

Cuộc khởi nghĩa của Võ Trứ tại Phú Yên năm 1898 đã vận động được sự yểm trợ rất đông của Tăng sĩ và tín đồ Phật giáo trong hai tỉnh Phú Yên và Bình Định. Thực dân Pháp cùng hệ thống tay sai đã gọi cuộc khởi nghĩa này là “Giặc Thầy Chùa”. Cũng từ đây mà phong trào đấu tranh của Tăng sĩ, Phật tử, nhân dân ngoài miền Bắc lại càng sôi nổi, cuộc vận động của hội “Thượng Chí” do Tăng sĩ Vương Quốc Chính- Trụ trì chùa Ngọc Long Động ở huyện Chương Mỹ, Hà Nội, lãnh đạo ở Bắc hoạt động rất sâu rộng, căn cứ hoạt động là các chùa từ Bắc Ninh Hà Nam, Hà Nội, … vào tới Nghệ An, quy tụ được hàng nghìn Tăng sĩ, hàng vạn tín đồ Phật tử. Nhưng vào đêm ngày mồng 05 tháng 12 năm 1898 tấn công đánh giặc tại Hà Nội của hội đã thất bại và nghĩa quân, Tăng sĩ, tín đồ Phật tử tại các tỉnh thành cũng bị đàn áp kịch liệt, kết quả đau thương là rất nhiều Tăng sĩ, cư sĩ Phật tử cùng nhân dân bị bắt bớ, cho đi tù đày, có người bị xử tử.

Tuy rằng cuộc vận động “Thượng Chí” do Tăng sĩ Vương Quốc Chính- Trụ trì chùa Ngọc Long Động không giành thắng lợi song đã để lại tiếng vang rộng khắp và tiếp thêm sức mạnh, tinh thần chiến đấu, của Tăng sĩ, cư sĩ Phật tử, nhân dân khắp các tỉnh thành trong đó có Tăng Ni tín đồ Phật tử các xã trên địa bàn huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam tiếp tục kiên trì tham gia các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.

Trong thời kì này, rút ra bài học kinh nghiệm từ cuộc vận động “Thượng Chí” do Tăng sĩ Vương Quốc Chính lãnh đạo, sư cụ Thích Quang Ưng- trụ trì Chùa Quang Minh thôn Bình đã cùng các cơ sở thờ tự trên địa bàn xã Ô Mễ, xã Đồng Du, xã An Bài, xã Hưng Công, Ngọc Lũ, Bối Cầu, Tràng Duệ, … đã liên hệ, phối hợp chặt chẽ, bàn bạc thống nhất lấy các cơ sở thờ tự như: Chùa, Đình, Phủ Mẫu, Đền, … là nơi hội họp, luyện tập quân sự, in ấn tài liệu tuyên truyền, truyền đơn cách mạng, cất giữ cờ Đảng, cờ Tổ quốc, nuôi giấu cán bộ, … cho các lực lượng vũ trang du kích.

Đến năm 1903, sau nhiều lần Thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai, phản động, quân chỉ điểm đã theo dõi phát hiện ra Chùa Quang Minh (chùa Bình) là nơi trung chuyển những cán bộ đưa tin, tài liệu cách mạng quan trọng, cờ Đảng, cờ Tổ quốc, truyền đơn, … từ các chùa, cơ sở thờ tự qua lại với nhau, vùng này sang vùng khác mà chúng không kiểm soát hay bắt bớ được nên chúng đã lấy lý do đào sông Sắt nối liền làm nhánh từ sông Châu, khởi nguồn ở bờ hữu gần cầu An Bài (xã Đồng Du, huyện Bình Lục). Trên lãnh thổ thuộc huyện Bình Lục sông chảy theo hướng Bắc – Nam làm thành ranh giới giữa các xã Đồng Du với Hưng Công, An Mỹ với Bối Cầu và Trung Lương, An Đổ với Trung Lương của huyện Bình Lục. Sông Sắt đổ nước vào sông Ninh ở cửa sông gần thôn Giải Đông (xã An Đổ) đối diện bên kia là thôn Mai Động, xã Trung Lương, chúng cho đào sông Sắt nói là để phục vụ cho việc tưới tiêu, hỗ trợ cho nhân dân trồng cấy lúa, cây hoa màu nông nghiệp song thực tế thì nền nông nghiệp các xã dọc tuyến sông dài 9,75km vẫn chỉ là “Chiêm ăn, mùa bỏ”; “chiêm khê, mùa thối”. Mục đích chính của chúng ở đây là đào sông Sắt để phá bỏ đi ngôi Chùa Quang Minh, ngăn cách sự liên kết hoạt động đưa tin, liên lạc, hoạt động tổ chức cách mạng của bà con nhân dân, văn thân, sỹ phu yêu nước, Tăng sĩ, cư sĩ Phật tử … trên khắp các xã thuộc huyện Bình Lục với nhau.

Trước khi chúng đào dòng sông Sắt thì “Chùa Quang Minh- Đình làng thôn Bình- Phủ Mẫu Non Mây” là một quần thể tâm linh có diện tích rất rộng, khang trang bề thế trong vùng tạo thành một tam giác đều, hay như chiếc kiềng ba chân vững chãi là nơi hoạt động sôi nổi vừa về đấu tranh giải phóng dân tộc chống áp bức thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai, bán nước cầu vinh và chế độ phong kiến bên trong, phía ngoài là cơ sở thờ tự, chốn tựa nương tinh thần cho nhân dân chiêm ngưỡng lễ bái cầu an. Sau khi đào sông Sắt chúng đã tháo dỡ hết các hạng mục công trình của chùa lấy gỗ mang đi để chúng xây bốt, còn một số ít lượng khung gỗ kém, nhỏ xấu, sâu mọt thì chúng để lại cho nhân dân dựng lại ngôi chùa nhỏ chênh vênh bên mép dòng sông Sắt nhằm mục đích làm cho có để tạm thời yên lòng nhân dân thôn Bình.

Sau khi tháo dỡ chùa Quang Minh (chùa thôn Bình) để đào sông Sắt và lấy đi những đồ có giá trị, những cột gỗ lim to, chắc chắn, chúng để lại cho dân những cây gỗ cong queo, nhỏ xấu, sâu mọt để xây dựng lại ngôi chùa bé nhỏ chênh vênh bên sườn đê sông, với các công trình tạm như: Tam Bảo, nhà Tổ, nhà khách, một vài công trình phụ trợ. Chúng nghĩ rằng việc đào sông Sắt sẽ làm ngăn cản sự hoạt động đấu tranh chống Thực dân Pháp và chế độ tay sai của nhân dân và các cơ sở Phật giáo, Tăng sĩ, văn thân, sỹ phu yêu nước, … nhưng chúng thực sự đã sai lầm, khi từ điểm này của chúng thành điểm mạnh của ta tăng thêm sự đa dạng trong phong cách hoạt động đấu tranh chống giặc.

Trong giai đoạn này một loạt các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra khắp nơi nổi bật lên là phong trào Đông Du và Đông Kinh Nghĩa Thục (1905-1908) của Lương Văn Can, Đào Nguyên Phổ, Võ Hoành, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Quyền, … thường hoạt động họp nhóm tại chùa Trấn Quốc, Hoà Mã, Liên Phái, … để cho kín đáo, tránh sự dòm ngó của giặc, đồng thời được sự ủng hộ mạnh mẽ mật thiết của giới Tăng sĩ, cư sĩ Phật giáo đi theo hướng đấu tranh bất bạo động, bằng hình thức tuần tiễu biểu tình trong yên lặng, nhưng kết quả cuối cùng phong trào bị đàn áp, tan dã, “Đông Kinh Nghĩa Thục” bị đóng cửa các đồng chí hoạt động người thì bỏ trốn, người thì bị bắt, người thì bị chúng đưa ra xử tử thị uy. Tuy rằng phong trào thất bại song cũng để lại tiếng vang dội khắp và tiếp thêm sức mạnh tinh thần ý chí quật cường, lòng căm phẫn trước sự đàn áp tàn độc của Thực dân Pháp đối với Tăng sĩ, cư sĩ Phật giáo, nhân dân các tầng lớp, văn thân, sỹ phu yêu nước trên toàn quốc nói chung và thôi thúc thêm tinh thần cho Đại lão Hoà thượng Thích Quang Ưng và bà con nhân dân Phật tử trong vùng tổng Ô Mễ, Ngô Xá, … sự kiên cường, bất khuất, ủng hộ các phong trào đấu tranh giành độc lập, đánh đuổi thực dân, xoá bỏ phong kiến, người dân có ruộng cày cấy canh tác thoát khỏi đói nghèo cơ cực.

Từ năm 1908- 1917 nhân dân ta chịu cuộc sống cùng cực, con người không có tự do bởi các chính sách bóc lột và chế độ hà khắc của đế quốc làm cho mâu thuẫn càng được đẩy lên cao, các hoạt động đấu tranh giải phóng dân tộc chống áp bức Chùa Quang Minh cũng như các cơ sở Phật giáo, Tăng sĩ, nhân dân tín đồ Phật tử, … trên địa bàn xã Ô Mễ, Đồng Du, An Bài, Hưng Công, … huyện Bình Lục nói riêng lâm vào thời kì khủng hoảng, song vẫn hoạt động âm thầm, liên kết chặt chẽ, thông tin liên lạc với nhau nhằm chờ đợi cơ hội đầy đủ nhân duyên điều kiện sẽ phát động phong trào đấu tranh.

Tháng 10 năm 1917, biết tin thắng lợi từ cuộc cách mạng tháng mười Nga và phong trào yêu nước hướng vô sản do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo liên tiếp chuyển dội về Việt Nam thông qua tài liệu sách báo, và tất cả công nhân làm việc tại các nhà máy lớn như nhà máy Chai, máy Tơ, máy Dệt Nam Định đã có ảnh hưởng trực tiếp khi tổ chức các cuộc bãi công, đình công, đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống khủng bố, đánh đập người lao động. Chính những hoạt động này đã khơi dậy tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân, Tăng sĩ, … trên địa bàn xã.

Sau khi về đến Quảng Châu Nguyễn Ái Quốc đã nhanh chóng mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ, lựa chọn những thanh niên tích cực để thành lập ra Cộng sản Đoàn vào tháng 02 năm 1925. Đến tháng 06 năm 1925, người Thanh niên Nguyễn Ái Quốc thành lập “Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên” nhằm tổ chức và lãnh đạo các tầng lớp, quần chúng nhân dân, Tăng sĩ, cư sĩ Phật tử, văn thân, sỹ phu yêu nước, … cùng nhau đoàn kết, đấu tranh để đánh đổ thực dân Pháp và chế độ tay sai. Với vị trí địa lý tự nhiên của huyện Bình Lục có tính đặc thù, các xã trên địa bàn toàn huyện trong đó có Ô Mễ, Đồng Du, An Bài, Hưng Công, … sớm hoà mình vào phong trào đấu tranh do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tổ chức. Từ tháng 7 năm 1927- đầu năm 1929, tổ chức này đã phát triển mạnh, thành lập tại 14 xã với 54 hội viên trên địa bàn, đến cuối năm tổng số kết nạp được 110 hội viên Việt Nam Cách mạng Thanh niên phủ đều các xã trên địa bàn huyện Bình Lục.

Năm 1930 (Canh Ngọ), tổ chức Bí mật của Đảng cộng sản Đông dương đã cùng sư cụ Thích Quang Ưng lập kế hoạch tuyển chọn lấy 25 trai tráng lực lưỡng từ các thôn trong vùng, chuẩn bị 1 chiếc thuyền gỗ to, tập chung nhau tại Chùa Quang Minh rồi xuống thuyền do ông Ngô Văn Bảo là người dân thôn Bình xã Ô Mễ lái di chuyển về khu vực Bỉnh Trung để phá kho thóc nhà Chánh Tổng ác bá để cứu tế cho dân nghèo. Kết quả thu được của 26 trai tráng trong lần đi này đó là rất nhiều thóc, vải đỏ, … Thóc thì đem chia hết, phân phát đều cho nhân dân, vải đỏ giữ lại để vẽ cờ búa liềm treo cao trên cây đa Đông Đống (ngày nay là nhà của gia đình ông Trần Đình Nhuận ở xóm Quang Trung, Hưng Công) và kẻ băng rôn khẩu hiệu đả đảo chính quyền Thực dân Pháp và quân tay sai.

Sau khi tổ chức sắp xếp xong thì sớm hôm sau quân lính khố xanh và quan tuần phố phủ Bình Lục đã đi về truy quét tìm khám gắt gao song chúng chả tìm thấy gì, chúng bắt bớ lấy hai anh em ông Lê Thống và Lê Thố nhưng cả 2 ông này đều là bị khuyết tật bẩm sinh. Thóc lấy được thì về chia cho dân cứu đói, vải vóc vẽ cờ được sư cụ Quang Ưng đem cất dấu dưới gầm ban Tam Bảo, chúa Đức Ông, …

Tháng 5 năm 1932, Đại lão Hòa thượng cùng Phật tử nhân dân, tổ chức đại lễ Phật đản (Bụt sinh Bụt đẻ). Nhân buổi lễ này đã may và cất giấu cờ búa liềm tại gầm ban Tam Bảo, ban thờ Đức Chúa Ông trong chùa. In ấn tài liệu, báo kêu gọi nhân dân theo Đảng Cộng sản đấu tranh chống áp bức nô lệ của thực dân phong kiến, các tài liệu được phơi khô và cất giấu trong gốc cây đa, tối đến Ngài cùng các chú tiểu và vãi đi rải rọc đường lối chợ Nội, chợ Sông, chợ Quắn, … .

 Giai đoạn từ năm 1931 đến hết năm 1942, đã có rất nhiều hội nghị họp bàn của Tỉnh Uỷ Hà Nam, Liên tỉnh uỷ C, Xứ Uỷ Bắc Kì được tổ chức diễn ra ở Đình Chùa Cổ Viễn (xã Hưng Công), Ban Cán sự Việt Minh huyện Bình Lục họp tại Đình Chùa Hoa Lâm thôn Trung- Đồng Du; các đồng chí đã trực tiếp chỉ đạo xây dựng các khu căn cứ cách mạng ở Hưng Công, Đồng Du, Ô Mễ, Tràng An, An Bài, …nhằm củng cố xây dựng lực lượng tự vệ, dân quan du kích tại địa bàn các xã, sắm sửa vũ khí để tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền, phong trào chuẩn bị khởi nghĩa ở tất cả các xã trên địa bàn Bình Lục diễn ra rất sôi động, khẩn trương. Tại nội viện chùa Quang Minh (thôn Bình), các lực lượng cách mạng địa phương cùng Đại lão Hoà thượng, chú tiểu, các vãi, nhân dân tập chung in ấn truyền đơn, kẻ cờ Tổ quốc, cờ Đảng, kẻ băng rôn khẩu hiệu, cắt cử người đi dán khẩu hiệu, băng rôn trên đường quốc lộ 21A và những địa điểm tập chung đông người như chợ Nội, chợ Quắn, chợ Sông, … nhằm tố cáo chính sách cướp bắp khủng bố của Thực dân Pháp, Phát xít Nhật và hệ thống tay sai, chống lại sự thu sưu cao, thuế nặng, chống nhổ lúa, phá hoại hoa màu để trồng đay, trồng thầu dầu. Tại chùa lực lượng tự vệ cơ động được thành lập, các lớp huấn luyện quân sự được tổ chức đều đặn thường xuyên, đặc biệt tích cực tham gia phong trào quyên góp sắt, thép, đồng, thau, …

Giai đoạn năm 1943 năm Quý Mùi, tay Lý Trưởng Vũ Văn Thạc đã đem quân lính của phố phủ Bình Lục về thôn Bình, Phùng, Ô Lữ, … bắt thanh niên đi mộ phu ở đồn điền cao su ở Dầu Tiếng nay thuộc Lô 50, làng 14, nông trường Trần Văn Lưu, xã Định Hiệp, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương hoặc bắt đi lính khố đỏ cho quân đội viễn chinh của Pháp. Khi ấy tại chùa có sư cụ Thích Quang Ưng và cụ già Ngô Kim Hanh đang nói chuyện đàm đạo về Phật pháp cũng như tình hình chiến sự của đất nước, thấy giặc truy lùng dân ta ráo riết sư cụ cùng lão ông Ngô Kim Hanh (1892-1964) đã nhanh trí kéo 2 ông Nguyễn Văn Dụng và Trần Văn Vụ vào ẩn nấp trong hậu cung của chùa, hai vị này đã nằm nấp dưới bệ thờ Phật cả ngày hôm ấy may mới thoát bị chúng bắt đi phu đồn điền và đi lính.

Ca dao Việt Nam có câu diễn tả lại cảnh con người bị bóc lột khi đi phu tại đồn điền cao su: “Cao su đi dễ khó về- Khi đi trai tráng khi về bủng beo”. Cũng trong thời điểm này hàng ngày tại chùa lại có tiếng trống, tiếng chuông, tiếng mõ, … lại ngân vang khi sư cụ Thích Quang Ưng tổ chức lớp học tế, để phục vụ cho các buổi lễ hội truyền thống của làng.

Giữa năm 1943 – đầu năm 1945, mặc dù bị địch đánh phá, càn quét quyết liệt đối với một số cán bộ của Xứ uỷ, Liên tỉnh uỷ C và Tỉnh Uỷ Hà Nam bị bắt bớ nhưng phong trào vẫn được giữ vững và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Các tổ chức tự vệ cứu quốc ở các xã cũng rất phát triển, các lớp huấn luyện cho tự vệ cứu quốc, tập dượt kịch bản cho các cuộc đấu tranh chống sưu cao, thuế nặng, … tại thôn Bình, xã Ô Mễ vẫn được tổ chức tại chùa Quang Minh đều đặn.

Ngày 09 tháng 03 năm 1945, quân Nhật đảo chính Pháp, quân Pháp chống cự yếu ớt ở vài nơi rồi sau đó đã đầu hàng, Phát xít Nhật đã dựng lên Chính phủ Trần Trọng Kim và đưa vua Bảo Đại (vị vua thứ 13 Triều Nguyễn làm Quốc trưởng). Trước diễn biến giữa Nhật và Pháp, Trung ương Đảng đã họp và ra Chỉ thị: “Nhật- Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, nêu rõ: Cuộc đảo chính đã tạo nên sự khủng hoảng chính trị sâu sắc, song công cuộc chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa vẫn chưa chín muồi, lúc này Phát xít Nhật là kẻ thù chính.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp, thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng, các công tác chuẩn bị cho công cuộc đấu tranh được nhân rộng, phát triển mạnh mẽ. Lực lượng tự vệ cứu quốc các xã trên địa bàn huyện Bình Lục đã kết hợp cùng các tầng lớp nhân dân, Tăng sĩ, cư sĩ Phật tử các chùa trong đó có chùa Quang Minh, văn thân và sỹ phu yêu nước  thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ các cuộc đấu tranh nhân dân và đặc biệt là sự tham gia vào cuộc mít tinh biểu tình của sư cụ Thích Thanh Ưng (Nguyễn Viết Ưng)- Trụ trì Chùa Quang Minh, sư cụ Trụ trì các chùa Nội, Phùng, Ô Lữ, Hoa Lâm, An Bài, Cổ Viễn, Nhân Trai, … và đông đảo Phật tử tín đồ trên địa bàn các xã Ô Mễ, Đồng Du, Tràng Duệ, An Thư, Hưng Công, An Bài, … đã hoà mình vào dòng người đi phá kho thóc của Nhật đặt tại nhà Chánh Côn (Ngô Khê), Bá Điểm (An Thư), (Vũ Bị) lấy gần 100 tấn thóc chia cho dân nghèo cứu đói.

Hàng đêm Đại lão Hòa thượng đã tổ chức đưa đón cán bộ Việt Minh qua sông Sắt về Hưng Công và ngược lại, vận chuyển thương binh về chùa để sơ cấp cứu chuyển ra vùng tự do. Thường thì thương binh phải ở lại chữa vết thương nên Ngài đã cho đào hầm an toàn, bí mật trong vườn riềng, vườn rong, bãi sả, để các sư tiểu nuôi dưỡng chăm sóc. Tháng 2 năm 1945, cơ sở hoạt động của tổ chức Việt Minh, nhóm “Đọc sách báo”, “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác”, … và chi đội Tăng già cứu quốc tại chùa bị lộ, Đại lão Hòa thượng cùng Ông Nguyễn Hữu Bào cùng một số cán bộ đảng viên khác bị giặc Pháp bắt và đưa về nhà máy Chai Nam Định.

Tại đây, giặc Pháp đã tra tấn giã man hòng lung lay ý chí cách mạng, nhưng Đại lão Hòa thượng cùng ông Bào, một số cán bộ đảng viên vẫn kiên cường, một lòng sắt son theo đường hướng cách mạng, bảo vệ dân tộc, theo lý tưởng cách mạng của Hồ Chủ tịch. Tháng 4 năm 1945, Đại lão Hòa thượng cùng ông Bào, một số chiến sĩ cách mạng khác trong tù đã tổ chức theo một đường dây bí mật trốn thoát khỏi nhà tù máy Chai ở Nam Định của Pháp. Ngay khi thoát khỏi nhà tù, hưởng ứng lời kêu gọi toàn Quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại lão Hòa thượng đã vận động nhân dân khắp nơi ủng hộ muối, nước mắm, gạo chi viện cho kháng chiến.

 Tổ chức Việt Minh ở các xã đồng loạt thực hiện cuộc vận động “Sắm vũ khí, đuổi phát xít Nhật” được sư cụ Thích Quang Ưng cùng Phật tử, nhân dân hăng hái tham gia hưởng ứng. Bằng việc làm cụ thể sư cụ đã vận động nhân dân phát tâm quyên góp ủng hộ cách mạng hàng chục đồng tiền đông dương, tiền hào, … vận động ông Ngô Kim Khái, (thôn Bình- xã Ô Mễ), ông Hà Văn Trồi (Ô Lữ) nhà gần cạnh Chùa là người có tay nghề thợ rèn đốt lò cùng những thanh niên trai tráng trong làng ngày đêm rèn vũ khí giáo mác búp đa, mã tấu, phi tiêu, dao quắm, … ủng hộ lực lượng tự vệ cứu quốc.

Tiếp đến ngày 20/08/1945 dưới sự lãnh đạo của Ban Cán sự Việt Minh huyện, sư cụ Thích Quang Ưng- Trụ trì chùa Quang Minh cùng các sư cụ Trụ trì các chùa Nội, Phùng, Ô Lữ, Đồng Du Trung, An Bài, Cổ Viễn, … nhân dân, cư sĩ Phật tử tại các chùa, văn thân, sỹ phu yêu nước lại kéo về phá kho thóc của Nhật tại Phố Phủ (nay là Thị trấn Bình Mỹ) lấy thóc chia cho nhân dân.

Lệnh khởi nghĩa của Trung ương, của tỉnh và tin khởi nghĩa giành thắng lợi (19/08/1945) ở các nơi liên tiếp dội về như luồng gió mạnh thổi bùng ngọn lửa cách mạng của nhân dân Bình Lục nói chung và nhân dân xã Ô Mễ nói riêng sẵn sàng chờ lệnh khởi nghĩa. Ngày 21/08/1945 tại căn cứ xã Đồng Du, Ban Cán sự Việt Minh huyện đã họp bàn quyết định thành lập Uỷ Ban khởi nghĩa, cùng ngày lệnh khởi nghĩa của Ban cán sự Việt Minh huyện được chuyển về xã Ô Mễ, nên hội Tăng sĩ, nhân dân, cư sĩ Phật tử vô cùng phấn khởi, tại chùa Quang Minh sôi nổi tổ chức kẻ vẽ băng rôn, biểu ngữ, khẩu hiệu, cơm nắm, gậy gộc chờ đoàn quân của huyện.

Hội ái hữu của Ô Mễ đã tổ chức vận động quyên góp ủng hộ, sư cụ Thích Thanh Ưng đã kêu gọi nhân dân được gần 5 tạ thóc, hàng chục lít mắm cá, mắm cua, … ủng hộ lực lượng vũ trang của huyện, các cụ Phật tử ở chùa Quang Minh thay nhau tổ chức nuôi quân, góp phần động viên cán bộ chiến sĩ ăn no đánh thắng.

Đến sáng ngày 22/08/1945 sư cụ Thích Quang Ưng cùng Phật tử nhân dân, quần chúng của thôn Bình, thôn Phùng, thôn Ô Lữ, thôn Ô Mễ xã Ô Mễ, … đội ngũ chỉnh tề, băng cờ, biểu ngữ, cờ Tổ quốc, đã gia nhập lực lượng khởi nghĩa phía Nam huyện Bình Lục, từ nhiều ngã đường kéo về bao vây huyện đường bắt tri huyện Bình Lục- Nguyễn Văn Hội đầu hàng giao nộp đồng triện, sổ sách, vũ khí cho Uỷ ban khởi nghĩa, hạ cờ của địch và kéo dương ngọn cờ đỏ sao vàng tung bay trong gió.

Sau Cách mạng tháng 08 thành công, Uỷ ban khởi nghĩa tuyên bố xoá bỏ hoàn toàn bộ máy cai trị và chính quyền tay sai của địch từ huyện đến xã, đồng thời công bố danh sách các thành viên trong Uỷ ban Cách mạng lâm thời huyện do đồng chí Minh Phú làm Chủ tịch, ở cấp xã phụ trách 3 thôn Bình, Phùng, Ô Lữ là ông Ngô Kim Khái (thôn Bình- nhà ngay gần Chùa Quang Minh) làm Chủ tịch lâm thời, ông Lưu Đức Nếp (người Ô Lữ) giữ vị trí Phó Chủ tịch lâm thời.

Cũng trong giai đoạn này Chùa Quang Minh (chùa Bình) trở thành trung tâm hoạt động chính trị. Từ trong Chùa dưới sự hướng dẫn của sư cụ Thích Quang Ưng cùng ông Ngô Kim Khái- Chủ tịch lâm thời 3 thôn đã thành lập xây dựng các đoàn thể cứu quốc như: Đoàn Thanh niên cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Nông hội cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc và xây dựng lực lượng tự vệ cứu quốc, tại chùa cũng diễn ra nhiều buổi diễn thuyết và dạy bà con nhân dân bài hát Quốc ca Việt Nam đó là ông Ngô Kim Thiện (người thôn Bình) khi ấy đang là thành viên đội tự vệ cứu quốc của Thành phố cảng Hải Phòng. Dưới sự lãnh đạo của chính quyền cách mạng lâm thời, được sự giáo hoá, vận động của sư cụ Thích Quang Ưng nhân dân thôn Bình cũng như các thôn lân cận trong vùng tích cực khai hoang phục hoá, mở rộng diện tích canh tác trồng cấy lúa, hoa màu cây ngắn ngày chống đói, cứu đói, tiết kiệm lương thực, các gia đình lập phong trào “Hũ gạo cứu đói” theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân trong thôn cùng nhau hỗ trợ vật tư như tre, rơm rạ, … để sửa chữa lại nhà ở, … .

Phong trào chống nạn mù chữ, diệt giặc dốt được triển khai rầm rộ, sôi nổi trên diện rộng trong quần chúng nhân dân, chùa Quang Minh cũng được sư cụ Quang Ưng mở cho nhân dân thuộc các lứa tuổi tham gia lớp bình dân học vụ, động viên con cháu của Phật tử đi học, thực hiện nếp sống văn hoá mới, xoá bỏ các tệ nạn xã hội, tích cực bài trừ các hủ tục mê tín dị đoan, tham gia giảng dạy cùng sư cụ Thích Quang Ưng có ông đồ Ngô Kim Khái (1907- 1995) , ông đồ Ngô Kim Tài (1887-1967), ông đồ Ngô Kim Lệ (1902- 1976), ông đồ Ngô Kim Hanh (1892-1964), ông đồ Ngô Kim Núi (1928-2020), Thầy giáo Ngô Kim Hoà (1927-2002); nhà ngay bên cạnh chùa, sau này chuyển sang công tác tại Sở ty Giáo dục tỉnh Thái Bình.

Đứng trước âm mưu Thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta và để đối phó với những hoạt động phá hoại của bọn Việt gian phản động, để công tác chuẩn bị lực lượng, vũ khí, tinh thần, tư thế sẵn sàng cho cuộc kháng chiến mới, chi bộ Đảng xã Ô Mễ đã chú trọng tập trung xây dựng lực lượng dân quân du kích được huấn luyện tại chùa Quang Minh thôn Bình với những vũ khí như giáo, mác, mã tấu, dao quắm, gậy tầm vông, được sư cụ Thích Quang Ưng huấn luyện võ, dùng côn, … chuẩn bị ứng phó trước những tình huống xấu khi giặc quay lại xâm lược nước ta. Luôn ở tinh thần sẵn sàng chiến đấu và làm nhiệm vụ, tổ chức tổ tuần tra canh gác giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn xã Ô Mễ, sư cụ trực tiếp tham gia dân quân du kích và dân công tham gia tiêu thổ kháng chiến như: Phá cầu cống, đường nhựa, đường sắt, chặt cây ngáng đường, đào hố cản trở đường đi của giặc, …

Để đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ chính quyền non trẻ, phải đương đầu đấu tranh với thù trong giặc ngoài, ngày mồng 04 tháng 09 năm 1945, Chính phủ ban hành sắc lệnh thành lập “Quỹ độc lập” từ Trung ương về đến cấp tỉnh; tháng 09 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào và chiến sỹ cả nước hưởng ứng “Tuần lễ vàng” diễn ra từ ngày 17 đến ngày 24 tháng 09 năm 1945. Hưởng ứng sắc lệnh về “Quỹ độc lập” và “Tuần lễ vàng”, sư cụ Thích Quang Ưng đã vận động nhân dân, cư sĩ Phật tử thôn Bình, Phùng, Ô Lữ (xã Ô Mễ) tích cực tham gia sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh tự nguyện đóng góp số tiền do mình chắt chiu, dành dụm được, những đồ trang sức (vàng, bạc, …), sư cụ Quang Ưng- Trụ trì chùa Quang Minh cùng Phật tử nhân dân thôn Bình xã Ô Mễ đã hiến tặng cách mạng nhiều đồ thờ tự bằng đồng như: đôi hạc thờ, lư hương, thanh la, lạo bạt, … và đặc biệt hơn là chùa Quang Minh (chùa Bình) đã hiến tặng cho phong trào cách mạng quả Đại hồng chung (chuông lớn) có khối lượng 3 tạ 90 kg (390 kg) bằng đồng vàng nguyên chất để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kì, ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh.

Sư cụ Thích Quang Ưng- Trụ trì chùa đã tích cực tham gia công cuộc tuyên truyền vận động, giáo hoá nhân dân, Phật tử các già tham gia thực hiện Tổng tuyển cử bầu Quốc hội vào ngày mồng 06 tháng 01 năm 1946 và bầu cử Hội đồng nhân dân, Uỷ ban hành chính các cấp vào tháng 02 năm 1946, đây là lần đầu tiên trong lịch sử dựng nước người dân Việt Nam không phân biệt giai cấp, tầng lớp, tuổi tác, giới, tôn giáo được vinh dự tự bản thân cầm lá phiếu bầu cử ra những đại biểu xứng đáng vào bộ máy Nhà nước và các vị lãnh đạo đứng đầu các địa phương. Đến tháng 03 năm 1946 xã Ô Mễ gồm 4 thôn là: Bình, Phùng, Ô Lữ, Ô Mễ đã chuyển về xác nhập với xã Đồng Du.

Trước lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ngày 20 tháng 12 năm 1946, hiệu triệu nhân dân cầm vũ khí đứng lên chiến đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm. Không có gươm thì dùng cuốc thuổng gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống Thực dân Pháp cứu nước”, sư cụ Quang Ưng đã cùng nhân dân 4 thôn Bình, Phùng, Ô Lữ, Ô Mễ xã Đồng Du tham gia thu gom, bó gánh vận chuyển hàng trăm gánh rơm rạ chi viện cho Thành phố Nam Định đánh hoả công, tham gia đi đào phá đường giao thông, xây dựng chướng ngại vật trên các trục đường chính, đào hố sâu chữ chi, đắp ụ đất cao, có nơi thì chặt cây đổ ngang đường, cắm cọc tre, … cụ còn vận động nhân dân tiếp tục ủng hộ tiền, gạo cung cấp cho lực lượng vũ trang đang chiến đấu tại Nam Định.

Cũng trong thời điểm này sư cụ Thích Quang Ưng đã vận động nhiều trai gái trong vùng đăng kí tòng quân, thanh niên xung phong, đi khai hoang thoát ly, cống hiến cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi sự xâm lược của Thực dân Pháp, khi này chùa là nơi sinh hoạt của bà con ở xã Ngọc Lũ đi sơ tán, nơi nuôi dấu cán bộ, chăm sóc các đồng chí chiến sỹ bị thương được vận chuyển từ Nam Định về bằng đường thuỷ.

Ngày 07/ 10 đến ngày 19/12 năm 1947, chiến dịch Việt Bắc Thu Đông bùng nổ, nghe được thư kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đi ngày mồng 08 tháng 10 kêu gọi bộ đội, dân quân du kích và toàn thể đồng bào ra sức tiêu diệt địch, tiếp đó ngày 15/10 Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị: Phải phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc Pháp. Mặc dầu lúc này Ngài 59 tuổi song với tinh thần yêu nước căm thù giặc xâm lăng, Đại lão Hòa thượng đã tạm gác sự nghiệp tu hành, cởi cà sa khoác chiến bào trực tiếp tham gia kháng chiến tại vùng Yên Thế – Bắc Giang và bị thương nặng ở vùng mạn sườn bụng. Sau đó Đại lão Hoà thượng được đưa về nhà thương điều trị đến khi sức khoẻ ổn định Ngài đã đi về lại Chùa Quang Minh tiếp tục sự nghiệp tu hành và hoạt động cách mạng ngầm.

Tháng 01 năm 1948, tỉnh đội Hà Nam đã chỉ thị xây dựng làng chiến đấu, chi bộ Đồng Du đã tổ chức lực lượng du kích ở tất cả các thôn xóm xuống thôn Nhân Trai (Hưng Công) học tập kinh nghiệm rào làng chiến đấu, Đại lão Hoà thượng Thích Quang Ưng đã vận động nhân dân ủng hộ, đóng góp tre để rào làng chiến đấu, các đường đi vào đầu thôn Bình đều thực hiện làm hàng rào nhiều lớp, nhiều tầng, ở giữa chỉ để một lối nhỏ vừa lọt người đi, lối đi giữa các lớp rào để xen kẽ theo hình chữ chi, lớp ngoài cùng có cổng đẩy và then cài cẩn thận, bố trí hố trông, cài mìn, cạm bẫy giữa các lớp, đào nhiều hào, hố ấn nấp dọc các đường, vận động các hộ gia đình trong khuôn viên nhà cũng đào hầm chú ẩn cá nhân. Trên địa bàn xã có 8 làng kháng chiến, mỗi làng có 1 đội du kích chiến đấu, Đại lão Hoà thượng đã tham gia vào đội du kích thôn Bình, lấy chùa là căn cứ điểm tập chung.

Năm 1949, thôn Bình tại chùa Quang Minh đã xây dựng tổ chức 2 trung đội du kích một đội nam và một đội nữ tổng quân số lên tới 60 người, từ các loại vũ khí đã có tiếp tục tăng cường thêm các loại vũ khí tự tạo như mã tấu, dao quắm, giáo búp đa, kiếm, mác. Thường xuyên tổ chức các buổi huấn luyện quân sự tại chùa, nghe chia sẻ tuyên truyền, giáo dục đến từ các cán bộ đảng viên vào các buổi tối để nhân dân thấy rõ những việc làm đê tiện, xấu xa của Thực dân Pháp và tay sai, phản động, chỉ điểm, … vạch rõ bộ mặt xâm lược, áp bức bóc lột, đồng hoá của chúng đối với nước ta và nói rõ cho quần chúng nhân dân ngày càng hiểu rõ hơn đường lối kháng chiến của Đảng ta và của Hồ Chủ tịch.

Từ cuối năm 1949, theo chỉ thị của Liên khu và tỉnh, các xã thi đua vận động phong trào “Đảm phụ quốc phòng” và đóng thóc “Công lương điền thổ” đóng góp cho kháng chiến. Để có lương thực nuôi quân đánh giặc ngoại xâm, Đại lão Hoà thượng đã vận động nhân dân, Phật tử quyên góp ủng hộ quỹ nuôi quân của huyện Bình Lục gồm lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm cần thiết như: thóc, gạo, khoai, mắm cá, mắm cua, …

Năm 1950, được Mỹ viện trợ, Pháp đã thực hiện kế hoạch: Tăng cường lực lượng quân Pháp sang, củng cố và khoá chặt biên giới Việt- Trung, đánh chiếm đồng bằng Bắc Bộ, củng cố nguỵ quyền tay sai, xây dựng quân đội quốc gia giả hiệu và dùng đội quân này làm nhiệm vụ bình định. Đứng trước tình hình căng thẳng của chiến sự khi giặc đưa thêm quân lính đổ bộ xâm lược nước ta, Đại lão Hoà thượng đã liên kết với các Tăng Ni trên địa bàn huyện Bình Lục cũng như các huyện trong tỉnh, ngoài tỉnh như Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, … cùng nhân dân địa phương gây dựng lại cảnh chùa các chốn già lam cho khang trang, tổ chức các ngày lễ lớn của Phật giáo nhằm quyên góp tiền ủng hộ mua vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men cho bộ đội kháng chiến.

Ngày 22 tháng 04 năm 1950 nhằm ngày mồng 06 tháng 03 năm Canh Dần (1950), hôm đó chùa tổ chức làm lễ cúng Mẫu nhân tháng tiệc “Tháng tám tiệc Cha, tháng ba tiệc Mẫu” cầu an nên nhân dân Phật tử thôn Bình và trong vùng tập trung rất đông, thành viên tổ du kích thôn Bình cũng tham dự lễ hôm đó và tổ du kích cắt cử nữ Thanh niên trẻ Ngô Thị Lộc (là người thuộc gái họ Ngô sinh sống tại thôn Bình) sinh năm 1930 người con gái thôn Bình, trụ trông canh giữ phục kích giặc ở điểm cách chùa 100m để khi địch đến còn báo hiệu cho mọi người đang lễ ở chùa được biết mà tìm cách chống đỡ. Trong trận càn quét đó chúng đã được quân do thám tay sai phản động chỉ điểm nên đã phát hiện ra chị, biết chúng đang tiến sát lại gần mình, tay phải chị đã cầm quả lựu đạn mỏ vịt, tay trái đã rút chốt an toàn chỉ chờ đợi chúng tiến sát lên một chút nữa chị sẽ quăng quả lựu đạn về phía chúng và liều mình quyên sinh. Giặc đoán được ý định của chị nên đã bắn ra 1 băng đạn tiểu liên AK về phía chị khiến chị trúng đạn ở đầu và hi sinh tại chỗ. Chị đã hi sinh anh dũng trên mảnh đất quê hương Đồng Du, chị ngã xuống cho lý tưởng cách mạng, cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thoát khỏi ách nô lệ, bóc lột đàn áp của giặc với nhân dân ta, chị đã được Đảng và Nhà nước, nhân dân công nhận là Liệt sỹ thời kì kháng chiến chống Pháp.

Ngày 21 tháng 5 năm 1950, thực dân Pháp điều 5000 quân, đa số là Âu Phi, mở cuộc hành quân Đa vít chia làm 5 mũi, đánh chiếm Hà Nam, đi dọc sông Đáy khi qua địa phận xã Đồng Du tới cầu phao An Bài bị tổ du kích của Đồng Du gồm 4 đồng chí: Nguyễn Văn Dụ, Nguyễn Văn Tuân, Nguyễn Văn Kiên, Nguyễn Văn Nghiên cho nổ mìn làm 8 tên lính bỏ mạng, phá huỷ 1 súng máy. Trong trận đánh này, quân ta bị thiệt hại 2 đồng chí là: Nguyễn Văn Kiên, Nguyễn Văn Tuân đã anh dũng hi sinh. Bị thiệt hại nặng nề nên quân giặc đã toả ra các thôn Bình, Phùng, Ô Lữ, … lùng sục để bắt, tiêu diệt lực lượng quân du kích của ta, do vậy chùa Quang Minh, Đại lão Hoà thượng Thích Quang Ưng đã nằm vào tầm ngắm để ý của giặc, chúng điên cuồng bắn phá, bắn chết gần chục người dân vô tội, làm sát thương nhiều người, cướp bắp lấy đi nhiều tài sản giá trị của nhân dân, khiến cho cuộc sống của bà con nhân dân trên địa bàn xã Đồng Du bị xáo trộn, hoang mang lo lắng.

Trong chùa, Đại lão Hoà thượng và Phật tử vừa phải đương đầu với kẻ thù, vừa tăng gia sản xuất chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến. Trong thời gian này, chùa là nơi hội họp bí mật của cán bộ nằm vùng nắm bắt tình hình, xây dựng lực lượng, xây dựng cơ sở. Gầm Tòa Tam Bảo chính trong chùa làm nơi in ấn tài liệu, vườn riềng, sả, vườn chuối, gốc đa, bụi tre rậm rạp là nơi cất dấu tài liệu, cờ Đảng, cờ Tổ quốc, là nơi xây dựng những căn hầm bí mật. Chính nơi đây là nơi hội họp, đi về trao đổi tin tức của cán bộ trong vùng.

Một mặt Đại lão Hoà thượng cũng đi tới các chùa bề nổi là để chia sẻ Phật pháp, cúng lễ cầu an cho dân, … nhưng sâu sa hơn đó là Ngài đi làm công tác dân vận, tuyên truyền, vận động nhân dân một lòng theo Đảng, quyết chí cùng Hồ Chủ tịch đánh đuổi ngoại xâm, động viên các thanh niên nam nữ tòng quân giết giặc, Ngài đã đến chùa Mụa ở Đước- Bình Lục, chùa Già ở làng An Thị- Ý Yên Nam Định, chùa Mụa ở làng chợ Mụa Ý Yên Nam Định, … .

Đại lão Hoà thượng đã hưởng ứng, tham gia tích cực cổ vũ phong trào “Đỡ đầu bộ đội”, “Mùa đông binh sĩ”, “Nuôi dưỡng thương binh”, “Hũ gạo kháng chiến”, “Bán gạo khao quân”, … trong quần chúng nhân dân, có tác động sâu sắc, tình cảm, tâm lý suy nghĩ của nhân dân, bên cạnh đó Đại lão Hoà thượng còn giáo hoá, khuyến khích động viên một số Tăng Ni trẻ tình nguyện xin gia nhập vào bộ đội đi chiến đấu. Ngài trực tiếp lên khoá lễ cởi Cà Sa cho 7 nhà sư tại chùa Quang Minh, và 13 người Thanh niên Phật tử đi tòng quân, động viên an ủi tinh thần và tiễn đưa mọi người lên đường theo tiếng gọi hồn thiêng sông núi, vững tay súng quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh, vì nền độc lập tự do của Dân tộc.

Thực hiện chỉ thị của Liên khu uỷ Liên khu III, từ ngày 25 tháng 07 đến 25 tháng 09 năm 1950, Tỉnh uỷ Hà Nam mở cuộc vận động 2 tháng “Lương- Giáo đoàn kết thi đua giết giặc”, một phong trào thi đua xây dựng cơ sở giết giặc lập công dấy lên toàn tỉnh. Đúng thời khắc sang canh Tý, 11h đêm ngày 25 tháng 07 tại chùa Quang Minh thôn Bình, Đại lão Hoà thượng Thích Quang Ưng đã tập hợp nhân dân Phật tử già làng mang chiêng, trống, mõ, phách, thanh la, tù và, lạo bạt cùng các thôn khác trên địa bàn đồng loạt nổi lên rầm rộ nhằm mục đích gây khí thế uy hiếp tinh thần quân địch. Đại lão Hoà thượng cùng đội dân quân du kích đốt đuốc tuần hành. Các lực lượng vũ trang tuyên truyền, xâm nhập vào các thôn mà chúng đã lập tề vũ trang. Mọi người treo cờ, rải truyền đơn lùng bắt tề phản động, tập hợp quần chúng nhân dân tuyên truyền đường lối chính sách của đảng ta, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vạch trần những tội ác của giặc.

Ngày 22 tháng 08 năm 1950 (nhằm ngày mồng 04 tháng 07 Canh Dần 1950), giặc Pháp đã mở cuộc tấn công càn quét vào chùa Quang Minh, lùng sục khám xét đe doạ, khủng bố tinh thần Đại lão Hoà thượng Thích Quang Ưng- thôn Bình xã Đồng Du, mặc dù quân dân ta đã giành chiến thắng, đẩy lùi được bước tiến của địch, làm địch tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, thu nhiều vũ khí, song đội quân du kích của thôn Bình cũng đã bị thiệt hại, tổn thất nặng khi đồng chí Trần Văn Lộc là người con em thôn Bình đã ngã xuống hi sinh khi tham gia cuộc chiến đấu chống sự càn quét địch về chùa thôn Bình, đồng chí Trần Văn Lộc đã được công nhận là Liệt sỹ thời kì kháng chiến chống Pháp.

Phát huy thắng lợi của đợt hoạt động “Lương- Giáo đoàn kết thi đua giết giặc” do Liên khu uỷ phát động, bước vào Đông Xuân 1950-1951, phối hợp với chiến dịch Biên giới, Đại lão Hoà thượng cùng quân và dân thôn Bình, xã Đồng Du và các thôn các xã lân cận như Hưng Công, Tràng An, Ngọc Lũ, Bối Cầu, Phố phủ, Trịnh Xá, Đồn Xá, … đẩy mạnh mọi phong trào hoạt động nhằm đưa cuộc kháng chiến lên 1 tầm cao mới, củng cố các khu chiến đấu liên hoàn, củng cố “Làng kháng chiến”, theo sát yêu cầu của chiến tranh du kích.

Là người hoạt động năng nổ tích cực, hiệu quả và là người có tiếng nói trong quần chúng nhân dân với lại Đại lão Hoà thượng Thích Quang Ưng cũng đã di chuyển vùng hoạt động xuống khu vực chùa Mụa, chùa Già, chùa Tâng, … của huyện Ý Yên nên Ngài đã được cử đi cùng một số đồng chí Đảng viên là cán bộ huyện và một số đồng chí thường vụ, chi uỷ xã để học tập, trao đổi kinh nghiệm xây dựng tổ chức “Thôn trang chiến” để về áp dụng cho thôn cho xã trên địa bàn huyện Bình Lục. Sau khi về Đại lão Hoà thượng Thích Quang Ưng đã tích cực thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân “Bám đất, bám dân, bám làng”, khôi phục cơ sở và phát động cuộc chiến tranh du kích trên toàn địa bàn, các hình thức tác chiến du kích, đánh phục kích, đánh địa lôi, tuyên truyền vũ trang, phá tề trừ gian, đánh giao thông, đánh tiếp tế, … .

Mặc dù khó khăn, nguy hiểm, căng thẳng là thế, nhưng Đại lão Hoà thượng cùng nhân dân Phật tử thôn Bình vẫn tin vào cách mạng, tin vào thắng lợi cuối cùng của Đảng ta của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ tháng 7 năm 1951 đến tháng 12 năm 1952, giặc Pháp đã rất nhiều lần tổ chức càn quét, truy lùng, khám xét dáo diết các chiến sỹ cách mạng, quân báo trinh sát của ta về nằm vùng tại chùa Quang Minh để vẽ sơ đồ bốt An Bài để quân chủ lực của ta tấn công phá bỏ bốt An Bài, nhưng nhờ vào kinh nghiệm nhiều năm hoạt động cách mạng của mình mà Đại lão Hoà thượng đã có sự chuẩn bị sẵn các loại giấy sớ, kinh sách, khoa cúng, áo the, khăn xếp, pháp khí phục vụ nghi lễ cúng, tế tự, … để cho các cán bộ của quân ta mặc vào nhằm chống lại sự bắt bớ, đánh đập của giặc.

Cũng trong thời gian này quân chỉ điểm, tay sai, phản động đã theo dõi gắt gao sự hoạt động của quân dân ta tại chùa Quang Minh có Đại lão Hoà thượng, thôn Bình, thôn Ô Lữ, … . Đầu tháng 12 năm 1951 chúng đã bắt được đồng chí Lưu Đức Giác- Chủ tịch xã , đồng chí Vọng hoạt động trong thôn Ô Lữ và xử tử hai đồng chí ngày 13 tháng 12 năm 1951 bên dòng sông Sắt, đến tháng 12 năm 1952 đồng chí Ngô Kim Tuyên (1925-1952)- tổ trưởng đội dân quân du kích hoạt động tại chùa thôn Bình cũng bị chúng bắt. Khi bắt được đồng chí Ngô Kim Tuyên đem về đồn bốt An Bài, với nhiều phương cách dụ dỗ, lời ngon ngọt cho đồng bạc trắng Đông Dương, cho quyền chức, rồi tra khảo, dùng cực hình đánh đập hành hạ dã man nhằm mục đích điều tra xem Đại lão Hoà thượng Thích Quang Ưng- Trụ trì chùa Quang Minh có tham gia hoạt động cách mạng không, chùa có phải là nơi hội họp, nuôi dấu cán bộ không, nhưng đồng chí Tuyên đã rất kiên cường, một lòng theo Đảng, quyết tâm theo Chủ tịch Hồ Chí Minh để đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi sự xâm lược của Thực dân Pháp nên không hề khai báo ra gì. Trước sự kiên trung vững lòng của đồng chí Ngô Kim Tuyên (1925-1952) quân giặc rất tức tối, cay cú và chúng đã đem đồng chí ra Cầu phao An Bài (bên dòng sông Sắt) để bắn chết nhằm thị uy làm cho quần chúng nhân dân ta sợ hãi vào ngày 13 tháng 12 năm 1952 (nhằm ngày 27 tháng 10 năm Nhâm Thìn).

Đứng trước tình hình căng thẳng đó, Đại lão Hoà thượng biết rõ chúng đã được quân tay sai, chỉ điểm thông tin phát hiện ra Ngài cũng như ngôi chùa Quang Minh, thôn Bình là nơi điểm tập trung cơ quan chỉ huy, đầu não của các hoạt động về đấu tranh cách mạng chống Pháp giải phóng dân tộc, là nơi diễn ra các hoạt động chính trị, quân sự, văn hoá- xã hội, giáo dục, … của địa phương. Nên tháng tư âm lịch, chuẩn bị tới mùa An cư kết hạ năm 1952, Đại lão Hoà thượng đã triệu tập cuộc họp kín với các cụ cao niên trong thôn, một số vị cốt cán trong đội du kích của thôn,… để bàn bạc và đưa ra phương án kế sách nhằm chống lại sự truy lùng của giặc.

Lấy lý do đi An cư Kết hạ, nhưng thực chất Đại lão Hoà thượng đã di chuyển xuống chùa Mụa ở Đước (xã Tiêu Động), chùa Mụa (Chợ Mụa- Ý Yên), chùa Già, chùa Tâng, … ở huyện Ý Yên Nam Định để hoạt động, tránh đi sự theo dõi của quân trinh thám, chỉ điểm tay sai, tránh đi sự bắt bớ của giặc.

Năm 1952, trước khi đi An cư kết hạ, Đại lão Hoà thượng đã giao lại chùa cho nhân dân cắt cử nhau trông coi quản lý đèn hương, thời khoá, quét dọn. Thời gian này quân giặc đóng tại bốt An Bài đã nống ra đi càn quét, cướp bắp, vơ vét tài sản của nhân dân trong vùng. Ngày rằm tháng 6 năm Nhâm Thìn (1952), chúng đã kéo một toán đông vài chục tên có cả Âu Phi, lính khố đỏ, 2 tên lính da trắng, quân tay sai, … trong đó có tên thiếu uý đồn trưởng Lê Chiêm cùng tên đội Tuấn và tên cai Mễ dùng súng bắn một băng đạn tiểu liên lên trên mái chùa Quang Minh để thị uy, đe doạ, trong lúc bà con nhân dân đang tụng kinh, lễ Phật.

Ngày 17 tháng 05 năm 1952, địch từ bốt An Bài hành quân đến Đền Cánh (Kính) Tiên (Thiên), đình An Bài nhằm dỡ gạch, gỗ lạt mang về xây dựng lô cốt. Du kích của các thôn tại xã Đồng Du phối hợp với B54 của huyện phục kích, đặt súng máy sẵn sàng chiến đấu, chi viện yểm trợ.

Tháng 6 năm 1952 chúng lại đi nống ra chùa Quang Minh, thôn Bình dỡ chùa bắt phu chuyển gạch, gỗ về để xây bốt An Bài, trước hành động ngang ngược, càn quấy của địch, nhân dân thôn Bình trong đó có cả những thành viên đội du kích đã đứng lên hiên ngang phản đối, kêu gọi nhân dân biểu tình chống lại hành động dỡ chùa của giặc. Chúng đã nổ súng bắn 1 băng đạn để đe doạ quần chúng nhân dân. Chúng đã rỡ chùa đi, đem tượng Phật ném quăng xuống dòng sông Sắt rồi chúng dời đi khi đã lấy hết gạch và những cây cột gỗ còn tốt. Vậy là ngôi cổ tự Quang Minh (chùa Bình) linh thiêng, bao năm phục vụ cách mạng, là nơi hoạt động của các đồng chí Đảng viên, cán bộ từ Tỉnh uỷ Hà Nam, Liên khu C, huyện Bình Lục, các tổ chức cách mạng, nơi nuôi dấu, bảo vệ, trung chuyển thông tin, … từ đây không còn nữa. Sau đó dân làng đã nhanh chóng lội xuống sông Sắt vớt hết tượng của chùa lên bờ, nhìn cảnh mà xót xa, trước tình cảnh đau thương này toàn thể nhân dân thôn Bình đã thống nhất cùng nhau cõng tượng Phật lên thờ tạm thời tại Đền Cánh Tiên (Kính Thiên) ngay gần Đình An Bài.

Tháng 7 năm 1952, địch từ bốt An Bài nống ra càn quét ở thôn Bình, Phùng, Ô Lữ, … chúng đã di chuyển đến Đền Cánh Tiên (Kính Thiên), tổ chức bắt phu rỡ Đền lấy gạch, gỗ mang về tiếp tục xây lô cốt, quân ta đã phục kích sẵn ở khu vực này, trong lúc chúng đang vận chuyển gạch, gỗ thì quân ta nổ súng tiêu diệt, trong trận này ta diệt được 12 tên giặc, bắn bị thương 7 tên, thu 10 cây súng các loại. Sau trận này ngôi Đền Kính Thiên (Cánh Tiên) cổ kính linh thiêng cũng không còn, cảnh tượng hoang sơ đổ nát, mọi thứ ngổn ngang, khiến lòng người con Phật se thắt lại. Một lần nữa nhân dân thôn Bình lại phải cõng Phật di chuyển về thờ tạm thời tại Đình thôn Bình nằm bên kia sông Sắt xóm Quang Trung (nay là Đình Quang Trung- Hưng Công) cho đến thời nay.

Đại lão Hoà thượng Thích Quang Ưng sau khi xuống chùa Mụa (Đước- Tiêu Động), chùa Mụa (chợ Mụa- Ý Yên), chùa Già, chùa Tâng, … tại Ý Yên Nam Định tu tập hoạt động cách mạng, nhưng khi ấy giặc Pháp cũng càn quét căng thẳng, gắt gao tại nơi đây, chúng biết được từ quân chỉ điểm, phản quốc thông tin sư cụ là một người hoạt động cách mạng năng nổ, tích cực, luôn tuyên truyền vận động nhân dân tham gia cách mạng, chống Pháp, ủng hộ nhu yếu phẩm, lương thực, thuốc men, tiền bạc cho cách mạng, lại tổ chức in ấn tài liệu, cờ Đảng, cờ Tổ quốc, luôn giáo hoá thanh niên là con em nhân dân Phật tử tự nguyện xin gia nhập đi theo tổ chức cách mạng chống Pháp, đi theo lý tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhận thấy Đại lão Hoà thượng là người có tầm ảnh hưởng sâu rộng và là mắt xích nhân tố quan trọng trong tổ chức hoạt động cách mạng chống Pháp, nên ngày mồng 04 tháng 10 năm 1953 chúng đã bắt Đại lão Hoà thượng Thích Quang Ưng áp giải lên trên núi Già, sau khu vực chùa Già (Ý Yên- Nam Định) để tra tấn, hành hạ, để khai thác thông tin các đồng chí, những tổ chức cách mạng đang hoạt động, nhưng với lòng gan dạ, quyết chí vì Đất nước, dân tộc, quốc gia một lòng với Đảng cho dù chúng tra tấn dã man thế nào Ngài cũng không khai nửa lời. Đứng trước sự kiên trung bất khuất, không chịu đồ hàng giặc nên chúng đã nã súng vào Đại lão Hoà thượng vào chiều tối trời đông gió rét ngày mồng 04 tháng 10 năm Quý Tỵ (nhằm ngày 20 tháng 11 năm 1953) tại ngọn núi Già, Ngài trụ thế 65 tuổi.

Ở các ngôi chùa giữ vị trí trụ trì, Đại lão Hòa thượng đã tổ chức nuôi những người cô đơn không nơi nương tựa, người tật nguyền cũng như một số chiến sĩ bị thương. Hàng đêm, tổ chức huấn luyện dân quân tự vệ của địa phương. Ngài luôn quan tâm chăm lo đời sống tinh thần, vật chất cho các đệ tử, Hội viên.

Tận tình với công việc Nhà chùa, làm tốt bổn phận người Trụ trì. Nêu cao tinh thần giác ngộ, cầu thị, lắng nghe học hỏi, tìm hiểu sáng tạo trong công việc. Bản lĩnh chính trị vững vàng, không sợ hiểm nguy tính mạng, quyết tâm bảo vệ cách mạng. Đại lão Hòa thượng đã tham gia tổ chức nhiều nghi lễ tâm linh, đáp ứng nguyện vọng tinh thần cho nhân dân. Chăm lo, bảo tồn và giữ gìn bản sắc văn hóa, duy trì và phát triển Phật giáo trấn Sơn Nam.

Đại lão Hòa thượng luôn nêu gương sáng về lòng bao dung độ lượng, chân tu giản dị, sống tiết kiệm, mộc mạc thanh bần. Dù khó khăn gian khổ, bị đàn áp tra tấn dã man, nhưng Đại lão Hòa thượng vẫn nêu cao tinh thần độc lập, tự tôn dân tộc, ý chí kiên cường, bất khuất, hiên ngang trước giặc ngoại xâm, một lòng trung kiên theo Đảng, theo Bác, theo đường hướng cách mạng, giải phóng Dân tộc.

Đại lão Hòa thượng đã dâng hiến trọn đời mình cho Tổ Quốc và sự nghiệp cách mạng đến hơi thở cuối cùng khi bị quân giặc sát hại tại đỉnh ngọn núi Già vào lúc 17h 40 phút ngày 04 tháng 10 năm Qúy Tỵ (nhằm ngày 20/11/ 1953).

Trong quá trình chuẩn bị tổng khởi nghĩa, các ngôi chùa ở huyện Bình Lục nói riêng các huyện trên địa bàn tỉnh Hà Nam nói chung đã đóng góp một vai trò khá quan trọng trong việc hậu phương, quân vận. Ngoài việc sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh của dân làng, chùa Quang Minh còn là nơi che giấu cán bộ hoạt động cách mạng. Nơi chứa cất vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men cho kháng chiến.

Chùa Quang Minh sau khi bị giặc bắt phu phá dỡ lấy gạch, lấy gỗ tốt, còn một ít chúng để lại, nhân dân thôn Bình đã mang đi dựng nhà làm nơi hội họp, trường dạy học của thôn tại khu đất tập thể.

  1. Thời Kì Miền Bắc Giải Phóng đến những năm đầu Thế kỉ XXI

Từ năm 1952- năm 2004, giặc Pháp tháo phá chùa xây bốt An Bài, nên hệ thống tượng Phật, Toà Cửu long, Bồ tát, chúa Đức Ông, Thánh hiền, Địa tạng, tượng Bụt đản sinh, … được nhân dân cõng mang đi tạm thờ chung tại Đình thôn Bình (Quang Trung), do trước năm 1966 thì hai bên Quang Trung và Lê Lợi mặc dù cách giữa sông Sắt nhưng vẫn thuộc một thôn Bình- Đông Du. Nhưng đến ngày 29 tháng 01 năm 1966, Bộ trưởng Bộ Nội vụ ra quyết định số 24/NV sát nhập xóm Quang Trung đang thuộc thôn Bình xã Đồng Du về xã Hưng Công sinh hoạt hành chính. Như vậy là hai thôn Bình và thôn Quang Trung thuộc hai xã khác nhau song vẫn sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng tâm linh cùng nhau, hơn 50 năm thôn vắng tiếng chuông, tiếng mõ sớm chiều ở chùa, bởi sự xâm lược tàn phá của giặc Pháp trên mảnh đất quê hương Đồng Du anh hùng.

Nhìn nhận thấy những bất cập chưa phù hợp trong việc tâm linh thờ tự chung giữa chư Phật, Bồ tát, Thánh Hiền, chúa Đức Ông, …  với chư vị Thành Hoàng cùng vào ngôi Đình, mà chư vị Phật là tối thượng nhưng lại được sắp xếp bố trí thờ tự bên phải của Đình nhìn về hướng tây. Cho nên ngày 27 tháng 06 năm 2004 (nhằm ngày 10 tháng 05 năm Giáp Thân) Ông Ngô Kim Hội- nguyên Bí Thư Đảng bộ xã Đồng Du thời kì (1972-1982); ông Ngô Kim Thuỷ; ông Ngô Kim Đạt; ông Nguyễn Văn Lẫm; ông Nguyễn Quốc Lập đã cùng nhau tập hợp các cụ cao niên, lão làng, toàn thể nhân dân sinh sống tại thôn Bình- Đồng Du và thôn Quang Trung- Hưng Công bàn bạc thống nhất xin xây dựng chùa về vị trí cũ sau đó chuyển hệ thống tượng thờ về lại chùa như xưa, do đó các ông đã đại diện viết đơn đề nghị các cấp chính quyền xã Đồng Du, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam chấp thuận cho nhân dân tín đồ Phật tử 2 thôn Bình và Quang Trung được xây cất, tu bổ tôn tạo lại ngôi phạm vũ, chùa Bình (Quang Minh Tự) nho nhỏ bên dòng sông Sắt.

Nhân dân hai xóm đồng tình

Cùng nhau vân tập về đình họp dân

Một lòng dựng lại chùa Bình

Khang trang tố hảo đẹp xinh muôn đời.

Để có được sự chấp thuận từ phía các cấp lãnh đạo chính quyền, các ông Ngô Kim Thuỷ, Ngô Kim Hội, bà Vũ Thị Mận… đã phải lặn lội vất vả, đi xe đạp ngược xuôi, hết Uỷ Ban xã lại vào Uỷ Ban huyện rồi lại về Uỷ Ban xã để trình bày đề nghị, tâm nguyện của toàn thể bà con nhân dân, các ông đã đi lấy chữ kí của toàn thể bà con nhân dân trên địa bàn 2 thôn thuộc 2 xã khác nhau nhưng có chung một tâm nguyện đó là được xây dựng, tôn tạo lại ngôi chùa Quang Minh. Số đơn thư, giấy tờ trình bày đề nghị tâm nguyện xây dựng lại chùa của tập thể nhân dân thôn Bình, thôn Quang Trung gom lại lên tới vài cân giấy viết tay của các ông.

Sau gần 2 năm vất vả, khó khăn là thế nhưng với ý chí quyết tâm của người Đảng viên ưu tú, sự kiên trì, không nản, vì lợi ích của số đông, lợi lạc cho tập thể mà các ông đã thuyết phục được lãnh đạo chính quyền các cấp xã Đồng Du, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam dựa vào sự chân thành, nhiệt huyết và cái chính là các ông đã nêu ra được lợi ích mang tới khi dựng lại chùa và đây nhu cầu thiết yếu của bà con nhân dân 2 thôn mà các cấp lãnh đạo đã chấp thuận cho dân làng được phép xây dựng lại ngôi chùa Quang Minh.

Sau khi được sự chấp thuận của các cấp chính quyền, toàn thể nhân dân 2 thôn rất vui mừng phấn khởi, hoan hỉ khi dân thôn sắp có chùa thờ Phật. Nhân dân đã bàn bạc thành lập Ban Khánh thiết xây dựng tu bổ tôn tạo chùa và Ban liên lạc gồm có: Ông Ngô Kim Hội- Trưởng ban, ông Ngô Kim Đạt- Phó ban, ông Ngô Kim Thuỷ- Thư kí, ông Nguyễn Văn Lẫm, ông Ngô Kim Liễn, ông Nguyễn Quốc Lập, bà Ngô Thị Toàn, ông Nguyễn Hữu Diễn… cùng nhau họp bàn vận động gia đình ông Nguyễn Hữu Diễn để lại vạt đất nền cũ của chùa cho dân với giá trị (8 triệu) đồng để có mặt bằng đất xây dựng, tu bổ, tôn tạo lại chùa vào năm 2006. Cũng trong năm ấy gia đình ông Nguyễn Văn Cửu và chị gái là bà Nguyễn Thị Nam đã hiến cho chùa vạt đất có chiều rộng 1,5m, chiều dài 15m làm lối đi bên hông chùa.

Ngày rằm tháng 2 năm Bính Tuất (2006) các ông trong Ban Khánh tiết đã sửa lễ cúng Phật cúng Tổ sau đó xuống bạch lễ Ni sư Thích Đàm Huệ- Trụ trì chùa An Bài, xin cụ bá thí cho thời gian đại cát, ngày lành tháng tốt để dân làng sắp xếp lễ nghi khởi công động thổ. Ni sư Thích Đàm Huệ đã bá thí cho 8h sáng ngày 29 tháng 03 năm 2006 (nhằm ngày mồng 01 tháng 03 năm Bính Tuất), dân làng nhất tâm cung thỉnh Ni sư hoan hỉ về thôn Bình thực hiện khoa nghi khoá lễ động thổ xây dựng lại chùa Quang Minh cho nhân dân.

Sau đúng 5 tháng xây dựng khẩn trương, cấp thiết, ngày 22 tháng 09 năm 2006 (nhằm ngày mồng 01 tháng 08 năm Bính Tuất) công trình tu bổ chùa Quang Minh đã gần hoàn thiện, khi ấy Ban Khánh tiết thông báo toàn thể nhân dân 2 thôn Bình và Quang Trung vân tập nhau lại họp tại Đình Quang Trung để tính toán sắp xếp tới việc chuẩn bị rước tượng về chùa mới. Nhưng chớ trêu thay khi vừa phát biểu xong thì bà con nhân dân thôn Quang Trung (Hưng Công) đã không đồng thuận việc rước tượng như đã thống nhất toàn thể nhân dân hai thôn trước khi làm đơn xin xây dựng lại chùa Quang Minh. Mâu thuẫn xảy ra giữa nhân dân 2 thôn vì việc rước tượng, bên Bình nhất tâm mong mỏi rước, bên Quang Trung gay gắt không cho rước. Đứng trước mâu thuẫn này, nhân dân thôn Bình chấp nhận lui về, không tranh cãi, không ồn ào, đúng như cái tên của thôn, người dân vốn dĩ rất hiền lành chất phác, nên toàn dân thôn Bình đã đi về, họp bàn tính toán tới việc sẽ tạc lại toàn bộ hệ thống tượng Phật thờ trong chùa. Khi biết tình hình rước tượng từ bên Đình Quang Trung về chùa Quang Minh mới xây không được thuận duyên nên toàn thể nhân dân thôn Bình- Đồng Du đã thống nhất sẽ đi tạc tượng mới, các gia đình ở tại thôn cũng như các gia đình là con em làm ăn xa quê hương ở tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh cũng như ở các tỉnh thành trên cả nước đã phát tâm về.

Danh sách các gia đình Phật tử phát tâm cúng dàng hệ thống tượng trong chùa:

  1. Gia đình ông Ngô Kim Khánh
  2. Gia đình ông Nguyễn Hữu Xuân
  3. Gia đình ông Ngô Kim Đạt
  4. Gia đình ông Ngô Sỹ Trung
  5. Gia đình bà Ngô Thị Ban
  6. Gia đình ông Ngô Quốc Việt
  7. Gia đình ông Ngô Kim Ngân

Danh sách các gia đình phát tâm cúng dàng bức Đại tự, hoành phi, câu đối

  1. Gia đình ông Trần Văn Chính
  2. Gia đình ông Nguyễn Ngọc Thuấn
  3. Gia đình bà Ngô Thị Thanh Thuỷ

Danh sách các gia đình phát tâm cúng dàng quả chuông lệnh nặng: 20kg

  1. Gia đình ông Trần Văn Chính
  2. Gia đình bà Lê Thị Lơ
  3. Gia đình ông Nguyễn Ngọc Thuấn
  4. Gia đình bà Trần Thị Hồng Hạnh

Đến ngày mồng 07 tháng 02 năm 2007 (nhằm ngày 20 tháng 12 năm Bính Tuất), Ban Khánh tiết cùng toàn thể bà con nhân dân thôn Bình hân hoan sửa lễ, bày biện tiến dâng chuẩn bị cho Đại lễ hô thần nhập tượng để cho bà con vui Xuân đón tết Đinh Hợi năm 2008. Ban Khánh tiết đã sửa lễ lên bạch Ni sư Thích Đàm Huệ nhất tâm cung thỉnh cụ sắp xếp thời gian lai đáo xuống chùa Quang Minh mới thực hiện khoa nghi “Hô thần nhập tượng”, “An vị lô hương”, “Lễ tạ địa long thần mạch”, … trong niềm vui, hân hoan, hỉ lạc của toàn thể bà con nhân dân từ nay trở đi đã có ngôi chùa thờ Phật tại thôn Bình xã Đồng Du.

Ngày mồng 1 tháng 04 năm 2007 (nhằm ngày 14 tháng 02 năm Đinh Hợi), được sự chấp thuận của các cấp lãnh đạo từ thôn đến xã, Ban Khánh tiết cùng bà con nhân dân thôn Bình, con em làm ăn xa quê, nhân dân Phật tử thập phương trang nghiêm long trọng tổ chức Đại Lễ cắt băng khánh thành chùa Quang Minh trong niềm hân hoan phấn khởi. Nghe bản tổng hợp báo cáo xây dựng, công trình xây dựng tu bổ lại ngôi chùa Quang Minh hết 129.486.500 (Một trăm hai mươi chín triệu, bốn trăm tám mươi sáu nghìn, năm trăm đồng), số tiền này là nguồn xã hội hoá, đến từ sự phát tâm công đức của toàn thể bà con nhân dân sinh sống tại thôn Bình và con em làm ăn xa quê hương.

Đến năm 2015, nhân dân bầu lại Ban Khánh tiết mới bao gồm các thành viên:

  1. Ông Ngô Kim Hùng- Trưởng Ban Khánh tiết
  2. Ông Nguyễn Quốc Lập- Phó Ban kiêm Thư kí Ban Khánh tiết
  3. Bà Nguyễn Thị Sen- Hội trưởng Hội Phật tử
  4. Bà Nguyễn Thị Tâm- Phó Hội Phật tử kiêm Thủ quỹ
  5. Bà Vũ Thị Dự- Phó- Hội Phật tử phụ trách xóm chùa
  6. Bà Nguyễn Thị Vân- Thủ kho kiêm Ban Hậu cần

Năm 2016, Ban Khánh tiết cùng nhau sửa lễ đi xuống chốn tổ Đình La Hào (chùa Vĩnh Phúc) nhất tâm xin thỉnh Ni trưởng Thích Đàm Đạt về giữ cương vị trụ trì và hướng đạo, phục vụ tín ngưỡng cho bà con nhân dân. Thấy sự nhất tâm tha thiết cầu đạo của bà con nhân dân thôn Bình, Ni trưởng Thích Đàm Đạt đã chấp thuận đề nghị của dân làng, sắp xếp thời gian về lễ Phật, thăm chùa, gặp gỡ toàn thể bà con nhân dân. Khi về nhìn cảnh chùa bé nhỏ, đất đai vườn tược, ao chuôm cũng chả có, Ni trưởng đã gợi ý cho Ban Khánh tiết cùng nhân dân mở mang thêm diện tích đất về hướng Bắc của chùa.

Được Ni trưởng gợi mở, Ban Khánh tiết đại diện là ông Ngô Kim Hùng- Trưởng Ban đã đến gặp gỡ, trao đổi với gia đình con cháu của cụ Nguyễn Hữu Diễn (trước cũng là thành viên Ban Khánh tiết) để xin gia đình nhượng lại mảnh đất sát với chùa. Sau vài lần gặp gỡ làm việc với gia đình con cháu cụ Diễn, thì đến ngày 29 tháng 09 năm 2018 (nhằm ngày 20 tháng 08 năm Mậu Tuất) gia đình con cháu cụ Diễn đã đồng ý để lại cho chùa, cho dân làng mảnh đất có diện tích 261m2 đất ở tại nông thôn với giá trị 120.000.000 (Một trăm hai mươi triệu đồng). Số tiền mua đất này được sự phát tâm của hai gia đình ở TP Hồ Chí Minh mỗi gia đình cúng 60.000.000 và gia đình ông bà: Ngô Sỹ Trung và vợ là Trần Thị Bích Huyền cũng phát tâm tiến cúng 1 pho tượng Ngài Bồ tát Quán Âm cao 2,5m cùng ban và đồ thờ trị giá khoảng 40.000.000 là con em người thôn Bình đi thoát ly vào Sài Gòn sinh sống lập nghiệp:

  1. Gia đình ông bà: Ngô Sỹ Trung- Trần Thị Bích Huyền
  2. Gia đình ông: Ngô Kim Tạo

 Sau khi có đất, Ni trưởng Thích Đàm Đạt cùng Ban Khánh tiết tổ chức họp dân làng bàn tính việc xây dựng thêm công trình nhà ở, sinh hoạt khi chùa có công việc. Dân làng đã đồng thuận theo sự chỉ dạy của Ni trưởng, đến ngày mồng 01 tháng 9 năm Mậu Tuất (nhằm ngày mồng 09 tháng 10 năm 2018) Ni trưởng cùng Ni chúng chốn tổ đình La Hào đã sắp xếp về chùa làm lễ khởi công động thổ xây dựng căn nhà ngang 4 gian cùng khu công trình phụ đến cuối năm thì hoàn thành. Tổng giá trị kinh phí xây dựng hơn 200.000.000 (hơn hai trăm triệu đồng).

  1. Thời Kì Chùa Có Sư Trụ Trì đến nay

Cuối năm 2019, Ni trưởng Thích Đàm Đạt đã giới thiệu Đại đức Thích Hải Thịnh là huynh đệ đồng tu, học chung lớp tại Học viện Phật giáo Việt Nam tại Sóc Sơn, Hà Nội với Đại đức Thích Khai Nhật về đi lại gieo duyên, hướng đạo cho bà con nhân dân thôn Bình. Cùng năm ấy sau khi nhân dân thôn Bình thấy Đại đức Thích Hải Thịnh là người có học thức, được đào tạo bài bản, có trình độ trung cấp lý luận chính trị loại giỏi, có trình độ cử nhân Phật học loại giỏi, … nhân dân đã họp bàn làm đơn xin Đại đức về trụ trì, đơn xin cúng chùa cho Giáo hội Phật giáo huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam.

Tháng 04 năm 2021, Đại đức Hải Thịnh cùng nhân dân thôn Bình họp bàn việc cải tạo giếng chùa rộng hơn 400m2. Sau đó Ban Khánh tiết do ông Ngô Kim Hùng- Trưởng Ban đã thông báo mời bà con nhân dân ra nhà văn hoá thôn để cùng nhau họp bàn, tính toán công trình xây dựng cải tạo giếng chùa, vấn đề đặt ra là không có lối đi để vận chuyển vật liệu xây dựng ra khu giếng. Ban Khánh tiết đã nghĩ ra sáng kiến đến gia đình ông Nguyễn Hữu Hải đề nghị cho mượn vạt đất vườn, khu nhà hoang đối diện chùa, sát đường đi, phía trước giếng, Ban Khánh tiết đến lần đầu gia đình ông Hải đồng ý cho chùa mượn không, nhưng sau đấy 2 ngày gia đình ông đã thay đổi quyết định sẽ cho chùa cùng nhân dân mượn vạt đất với kinh phí 10.000.000 (Mười triệu đồng), Ban Khánh tiết chùa mang giấy giao dịch ký kết mượn vạt đất đến với giá 10 triệu thì gia đình lại nâng mức giá lên thành 15.000.000 (Mười lăm triệu đồng), Ban Khánh tiết lại về. Hôm sau đại diện dân làng cùng Ban Khánh tiết lại đến với bản giấy giao dịch mượn vạt đất 15 triệu đồng thì gia đình ông Nguyễn Hữu Hải lại nâng mức giá mượn vạt đất lên thành 20 triệu đồng với lý do bồi thường hỗ trợ thêm cho việc phá dỡ cái bể nước khu nhà hoang, Ban Khánh tiết vẫn đồng thuận ngồi tại nhà ông Nguyễn Hữu Hải viết bản giấy giao dịch mượn vạt đất với mức giá thành 20 triệu đồng, cùng với đó là Ban Khánh tiết chùa cùng nhân dân phải tập trung nhân lực, thuê máy múc, công nông đến để tháo dỡ, dọn dẹp, bốc chở những thứ mục nát thuộc khu nhà hoang của gia đình ông Nguyễn Hữu Hải.

Sau khi đã mượn được đất, có bản thiết kế của Kĩ sư Nam ở TP Hạ Long, Quảng Ninh, Ban khánh tiết đã thu mua vật liệu đá hộc, đá san lấp, cọc tre, sắt thép, … đóng cọc tre, kè móng bờ, đổ giằng bê tông cốt thép, quây lan can dậu thành miệng giếng bằng chất liệu đá xanh Ninh Bình, tổng giá trị công trình cải tạo giếng chùa là 406.000.000 (Bốn trăm lẻ sáu triệu đồng chẵn). (nguồn kinh phí là xã hội hoá từ nhân dân thôn Bình và Phật tử xa gần tiến cúng, trong đó nổi bật là gia đình ông Ngô Kim Soạn tiến cúng 21.000.000; gia đình Bùi Tuấn Phương- Vũ Thị Thuý cúng tiến 40.000.000, … )

Sau 5 tháng xây dựng, giếng đã hoàn thành, khang trang đẹp đẽ, Đại đức Thích Hải Thịnh cùng Ban Khánh tiết đã cho người tạc lên hòn đá phong thuỷ hai chữ “Giếng thiêng” đặt ở bệ trụ giữa giếng nhằm nhắc bà con nhân dân nhớ đến lịch sử linh thiêng của giếng vào thời kì trước cả làng ra giếng gánh nước về sử dụng mùa khô nhưng giếng lúc nào cũng đầy nước trong vắt, ngọt mát.

Giếng hoàn thành cùng đồng nghĩa việc Ban Khánh tiết phải mua vật liệu, kêu thợ xây dựng lại bờ bao quanh khuôn viên đất mà nhà chùa và nhân dân đã viết giấy mượn đất làm lối đi vận chuyển vật liệu xây dựng với giá trị 20 triệu của gia đình Nguyễn Hữu Hải, vậy là tổng kinh phí chi trả cho việc mượn vạt đất, xây dựng trả tường bao của gia đình ông Nguyễn Hữu Hải là 43.500.000 (Bốn mươi ba triệu năm trăm nghìn đồng). Sau khi công tác xây dựng giếng chùa hoàn thành gia đình ông bà: Ngô Kim Nhu và Bùi Thị Song đã thành tâm hiến tặng mảnh đất phía Bắc giáp với giếng có diện tích 93,7m2 cho chùa Quang Minh.

Ngày mồng 02 tháng 11 âm lịch năm 2022, chùa tiếp nhận pho tượng Bồ tát Quán Thế Âm Nam Hải cao 7,2m nặng 31 tấn bằng chất liệu đá trắng Ngũ Hành Sơn- Đà Nẵng do đại thí chủ Lê Thị Hoà tiến cúng có giá trị 780.000.000, trong không khí trang nghiêm thanh tịnh, hoan hỉ hoà hợp phấn khởi của Thầy và trò chùa Quang Minh.

Giữa năm 2022, Thầy trụ trì cùng ông Ngô Kim Hùng- Trưởng ban Khánh tiết chùa hội ý kín việc bầu bổ sung thành viên tham gia Ban Khánh tiết. Sau khi đưa ra trước quần chúng, mọi người đều hoan hỉ giới thiệu thêm 3 thành viên là: Bà Trần Thị Lan, bà Phạm Thị Việt, bà Nguyễn Thị Đào. Vậy là danh sách thành viên Ban Khánh tiết sau khi bổ sung thêm sẽ là:

  1. Ông Ngô Kim Hùng- Trưởng Ban Khánh tiết
  2. Ông Nguyễn Quốc Lập- Phó Ban kiêm Thư kí Ban Khánh tiết
  3. Bà Nguyễn Thị Sen- Hội trưởng Hội Phật tử
  4. Bà Nguyễn Thị Tâm- Phó Hội Phật tử kiêm Thủ quỹ
  5. Bà Vũ Thị Dự- Phó Hội Phật tử phụ trách xóm Chùa
  6. Bà Nguyễn Thị Vân- Thủ kho kiêm Ban Hậu cần
  7. Bà Phạm Thị Việt- Phó Hội Phật tử phụ xóm Đường Cái
  8. Bà Nguyễn Thị Đào- Phó Hội Phật tử phụ trách xóm Đường Cái
  9. Bà Trần Thị Lan- Phó Hội Phật tử phụ trách xóm Chùa

Tháng 02 năm 2023, Thầy trụ trì cùng Ban Khánh thiết lên kế hoạch xây dựng khu nhà khách và lầu chuông 3 tầng với tổng diện tích mặt sàn là 135m2. Công trình xây dựng kết cấu bê tông cốt thép cùng lầu lục giác đá xanh Ninh Bình với tổng kính phí cả công trình khoảng 350.000.000 (Ba trăm năm mươi triệu đồng chẵn).

Ngày 17,18 tháng 09 âm lịch năm 2024, Ban Khánh tiết cùng Thầy trụ trì quyết định tổ chức lễ đúc Đại Hồng Chung khối lượng 1 tấn 112kg (trị giá 528.000.000 Năm trăm hai mươi tám triệu đồng chẵn), trong đó gia đình con cháu cụ Ngô Kim Tài tiến cúng 300.000.000 vào quả chuông, dân làng thôn Bình tiến cúng 79.800.000 (Bảy chín triệu tám trăm nghìn đồng) trong đó đại gia đình ông Lê Văn Mến tiến cúng số tiền 16.500.000 (Mười sáu triệu năm trăm nghìn), hôm tổ chức đại lễ kiểm thu tiền công đức của nhân dân Phật tử gần xa được: 121.000.000 (Một trăm hai mươi mốt triệu đồng); gia đình cô Nguyễn Thị Xuân ở Đan Phượng Hà Nội cúng tiến: 60.000.000, gia đình bà Trần Thị Thành- anh Bùi Xuân Thắng- Đan Phượng tiến cúng 74.000.000, gia đình cô Bùi Tuấn Phương- Nguyễn Thị Thuý Đan Phượng tiến cúng 29.000.000. Tông kinh phí của Phật sự đúc Đại Hồng Chung là 947.000.000 (Chín trăm bốn mươi bảy triệu đồng chẵn).

Sau 6 năm về trụ trì chùa, Đại đức Thích Hải Thịnh cùng Ban Khánh tiết đã cố gắng tu bổ, xây dựng, tôn tạo lại các hạng mục chùa Quang Minh trong khả năng của mình để chùa Bình (Quang Minh Tự) ngày càng trang nghiêm, tố hảo, là điểm đến cho người dân thôn Bình cũng như Phật tử khắp nơi xa gần về chùa chiêm bái lễ Phật.

Một số gia đình tiêu biểu gieo duyên tiến cúng đất, tịnh tài tịnh vật về chùa Quang Minh:

  1. Gia đình cô: Lê Thanh Hoà
  2. Gia đình ông bà: Ngô Thị Sánh- Phạm Văn Kính
  3. Gia đình ông bà: Ngô Sỹ Trung- Trần Thị Bích Huyền
  4. Gia đình ông bà: Ngô Kim Soạn- Hà Thị Tĩnh
  5. Gia đình ông: Ngô Kim Tạo
  6. Gia đình bà: Nguyễn Thị Nụ
  7. Gia đình bà: Trần Thị Thành- anh Bùi Xuân Thắng
  8. Gia đình cô: Nguyễn Thị Xuân
  9. Gia đình cô chú: Bùi Tuấn Phương- Nguyễn Thị Thuý
  10. Gia đình cô chú: Nguyễn Đăng Bình- Nguyễn Thị Ngân
  11. Gia đình ông bà: Ngô Kim Nhu- Bùi Thị Song
  12. Gia đình ông bà: Ngô Thị Hương- Trần Đức Đôn.

Chùa Quang Minh là nơi có ý nghĩa lịch sử, hoà mình vào dòng chảy của dân tộc trong các cuộc cách mạng đấu tranh giành độc lập. Đây là niềm vinh dự tự hào của chư Tăng, Phật tử, nhân dân làng Bình, trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, thời gian với bao thế hệ ông cha đã sinh sống cống hiến trên mảnh đất này, vẫn mãi giữ được tinh thần yêu nước, yêu quê hương.

Những truyền thống đấu tranh, kiên trung bất khuất, tinh thần gan dạ, quả cảm: “Hộ quốc an dân, đồng hành cùng dân tộc” hay “Đạo pháp dân tộc chủ nghĩa xã hội” của Phật giáo Việt Nam cũng đã được các thế hệ Tăng Ni Phật tử của chùa Quang Minh ngày càng được nâng cao phát huy. Đặc biệt, trong cao trào cách mạng giải phóng dân tộc từ những ngày cách mạng còn non trẻ gian khó. Chúng ta, những thế hệ trẻ hôm nay và mai sau càng phải trân quý bảo tồn, tôn tạo phát huy giá trị của cơ sở tôn giáo chùa Quang Minh, góp phần vào công tác giáo dục và phát huy truyền thống bản sắc văn hoá dân tộc của quê hương để chùa ngày càng phát triển trường tồn.

 

 

Thầy Hải Thịnh

Bài viết liên quan

Phản hồi