Đà Nẵng: Tổ Đình Linh Ứng trang nghiêm lễ Húy nhật lần thứ 14 cố Hòa Thượng Thích Thiện Hữu viên tịch

PGĐS – Sáng nay, ngày 28 tháng 11 năm Nhâm Dần (21/12/2022) tại Tổ Đình Linh Ứng TP. Đà  Nẵng trang nghiêm cử hành lễ húy nhật lần thứ 47 cố HT thượng Trí hạ Hữu viên tịch.
Quang lâm chứng minh có HT. Huệ Thường trụ trì chùa Long Hoa TP. Đà Nẵng; Ht. Huệ Thông trụ trì chùa Vĩnh An TP. Đà Nẵng; HT. Hạnh Mãn trụ trì tổ đình Tam Thai TP. Đà Nẵng, chư tôn đức Tăng Ni trong môn phái Lâm Tế Chúc Thánh tỉnh Quảng Nam, TP. Đà Nẵng và chư tôn đức Tăng Ni các tự viện trong, ngoài địa bàn TP. Đà Nẵng cùng đông đảo Đạo Hữu Phật Tử về tham dự đồng cầu nguyện giác linh cố Hòa Thượng cao đăng Phật Quốc.
Hòa thượng thế danh Lê Thùy pháp húy Thị Năng, tự Trí Hữu, hiệu Hương Sơn, nối pháp đời 42 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 9 pháp phái Chúc Thánh. Hòa thượng sinh năm Quý Sửu (1912) tại làng Quá Giáng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Năm Giáp Tuất (1934), Ngài xuất gia với Hòa thượng Như Thông-Tôn Nguyên tại chùa Linh Ứng, Ngũ Hành Sơn. Đến năm Mậu Dần (1938), khi vừa tròn 27 tuổi thì Ngài thọ Cụ túc giới.
Năm Ất Hợi (1935), Ngài được Bổn sư cho theo học tại Đà Thành Phật Học Viện tại chùa Phổ Thiên-Đà Nẵng. Năm Đinh Sửu (1937), Ngài tiếp tục theo học tại Phật Học Đường Báo Quốc-Huế. Năm Ất Dậu (1945), sau khi tốt nghiệp đại học Phật giáo tại Báo Quốc, Ngài vân du hóa đạo tại các tỉnh miền Nam.
Năm Kỷ Sửu (1949), Ngài lập ngôi chùa nhỏ đặt tên Ứng Quang , mở lớp dạy chúng điệu các chùa lân cận. Trong thời gian này, Ngài cộng tác với tạp chí Từ Quang nhằm phổ biến giáo lý đến khắp các giới Phật tử. Năm Canh Dần (1950), Ngài cùng với các Hòa thượng Thiện Hòa, Thiện Hoa v.v… hợp nhất các Phật học đường Liên Hải, Sùng Đức thành Phật Học đường Nam Việt. Năm Đinh Dậu (1957), Ngài về lại Ngũ Hành Sơn trụ trì tổ đình Linh Ứng.
Năm Canh Tý (1960), Phật Học Viện Phổ Đà thành lập tại chùa Phổ Thiên-Đà Nẵng, Hòa thượng được mời làm Giám viện cho đến năm 1975.
Năm Tân Sửu (1961), Ngài được cung thỉnh vào chức vụ Trị Sự Trưởng GHTG Quảng Nam Đà Nẵng.
Năm Nhâm Dần (1962), Ngài được cử làm trụ trì chùa tỉnh hội Đà Nẵng.
Năm Giáp Thìn (1964), GHPGVNTN được thành lập, Ngài được Viện Hóa Đạo cử làm Chánh đại diện miền Liễu Quán.
Năm Mậu Thân (1968), Hòa thượng được cung thỉnh làm Đệ thất tôn chứng tại giới đàn tại Phật học viện Hải Đức-Nha Trang. Năm Canh Tuất (1970), Ngài được cung thỉnh làm Đệ ngũ tôn chứng tại Đại giới đàn Vĩnh Gia tổ chức tại Phật học viện Phổ Đà-Đà Nẵng. Năm Tân Hợi (1971), Ngài được cung thỉnh làm Giáo Thọ A-xà-lê tại giới đàn Tu viện Quảng Đức, quận Thủ Đức-Sài Gòn.
Năm Nhâm Tý (1972), Ngài vận động đại trùng tu tổ đình Linh Ứng.
Năm Quý Sửu (1973), Ngài được Đức Tăng Thống tấn phong lên hàng giáo phẩm Hòa thượng và thỉnh vào Hội đồng giáo phẩm Viện Tăng Thống GHPGVNTN.
Năm Ất Mão (1975), vào lúc 12 giờ ngày 28 tháng 11 âl (30.12.1975), Ngài đã viên tịch tại chùa Ấn Quang-Sài Gòn, nơi mà 37 năm về trước Ngài đã đặt những viên đá đầu tiên kiến tạo. Sau khi trà tỳ, hài cốt của Ngài được phân làm hai phần: một phần thờ tại chùa Ấn Quang và một phần đem về nhập bảo tháp tại chùa Linh Ứng-Ngũ Hành Sơn.
Ngài phiên dịch và trước tác nhiều kinh sách như:
– Kinh Viên Giác
– Lời Phật dạy (Phỏng dịch)
– Duy thức dị giản
– Kinh Phật địa: Ấn hành năm 1959.
– Phật học danh số: Đăng nhiều kỳ trên tạp chí Từ Quang.
– Lịch sử Ngũ Hành Sơn (sáng tác)
Đặc biệt, trong đó  tác phẩm “Lịch Sử Ngũ Hành Sơn” là cuốn sách rất có giá trị về mặt lịch sử, văn hóa của Phật giáo tại núi Ngũ Hành.
Ngoài việc kế thế trùng tu tổ đình Linh Ứng, Ngài đã khai sơn các chùa Ứng Quang (1949) (tức chùa Ấn Quang bây giờ)-Sài Gòn, các chùa Hòa Phước (năm 1950), Chùa Bảo Minh (1965) huyện Hòa Vang, chùa Từ Quang-Điện Bàn, Bích Trân, La Thọ tại Quảng Nam Đà Nẵng.
Sau đây là những hình ảnh được ghi nhận:
Tâm Tuệ Sakya

Bài viết liên quan

Phản hồi