Các loại ma người tu thường gặp

“Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm người tu hành thối đạo tâm, cuồng loạn mất chính niệm, hoặc sinh tà kiến làm điều ác rồi kết cuộc bị sa đọa.

“Ma” tiếng Phạn gọi Ma Ra, Trung Hoa dịch là Sát, bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu.

“Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm người tu hành thối đạo tâm, cuồng loạn mất chính niệm, hoặc sinh tà kiến làm điều ác rồi kết cuộc bị sa đọa.

Những việc phát sinh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết Bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sinh chịu khổ đọa trong vòng sống chết luân hồi, là Ma sự.

Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thịnh. Ma tuy nhiều, nhưng kết yếu chỉ có ba loại là: Phiền Não Ma (bên trong), Ngoại Ma và Thiên Ma.

Ngoại Ma là những loài quỷ thần yêu mị bên ngoài. Người tu khi có đôi chút công phu, liền bị nó đến thử thách phá khuấy. Loài này có thể chia thành ba hạng là: Bố Ma, Ái Ma và Não Ma.

1. Bố Ma:

Là loài ma ưa khủng bố làm cho người kinh sợ. Thứ ma này thường hóa hình cọp, sói, rắn, rết, hoặc các loài thú hung dữ kỳ lạ, hay hình ác quỷ ghê rợn để dọa nhát người tu.

Những hình tướng này biến hóa vô cùng, hoặc không đầu, nhiều đầu, nhiều tay, nhiều mắt; hoặc mình người đầu thú, mình thú đầu người, hoặc cầm khí giới, hoặc phun lửa đỏ. Nếu người tu hành kinh hãi, liền bị nó phá làm mất chính niệm, lắm khi sinh điên cuồng.

Gặp cảnh này, nên quán tưởng các tướng đều giả dối, ma chỉ có thể hủy diệt huyễn thân chớ không thể phá hoại được chân tâm.Suy xét như thế rồi liền bình tĩnh không sợ chết, an nhiên chuyên tâm niệm Phật hoặc trì chú, nó sẽ tự rút lui.

2. Ái Ma

Là loài ma khích động lòng ái dục cho đến tâm tham nhiễm các cảnh dục lạc. Chúng hóa hình nam, nữ lõa lồ xinh đẹp; hoặc hình cha mẹ anh em, kẻ thân mến; cho đến thân Phật, Bồ Tát tướng tốt trang nghiêm, chúng cũng có thể biến ra kèm theo nhiều thần thông vi diệu để khuyến dụ khiến người tu lạc lối.Nếu người thích ăn ngon, chúng hóa sơn hào hải vị hương thơm ngào ngạt đem dâng; người ưa bảo vật, chúng hiện hình thú lạ ngậm châu ngọc đến hiến tặng.

Tùy tâm niệm người tu hành ưa thích điều chi, nó liền hiện ra thứ ấy. Chúng có thể dùng ma lực khiến cho người tu được tà định, tà trí, tài biện thuyết, phép thần thông biết quá khứ, vị lai.

Những kẻ không hiểu cho là đã chứng đạo quả, thảy đều tin phục; song kỳ thật người kia trong tâm điên đảo, chuyên làm phép quỷ mê hoặc thế gian.

Có một nhà sư Việt Nam tu tại chùa Bàng Long bên Lào, trong khi thiền định thấy một nhóm mỹ nữ lõa lồ, nắm tay nhau nhảy múa. Sư trấn định tâm không nổi, liền thành khẩn niệm Phật, tướng ấy mới tan.

Khi xưa, ở chùa núi Chung Nam tại Trung Hoa, có một vị sư đang tham thiền, nhân khi trời lạnh bụng đói, động niệm tưởng ăn; bỗng thấy một thiếu phụ bưng thức ăn đến cúng dường.

Thiếu phụ quỳ sớt đồ ăn vào bát, thỉnh sư nên dùng liền kẻo nguội lạnh, mất ngon. Sư vì đói muốn ăn ngay, nhưng nghĩ chưa đến giờ thọ trai, nên nhẫn nại bảo hãy tạm để một bên, chờ đúng giờ rồi sẽ ăn.

Thiếu phụ nghe nói, có vẻ hờn giận bỏ đi. Giây lâu sau đúng ngọ (12 giờ trưa) sư giở bát ra, thấy trong ấy toàn là dòi bò lúc nhúc.

Chừng ấy ông mới tỉnh ngộ, biết vừa động sinh vọng niệm, liền rước lấy cảnh ma; may nhờ có chút định lực mới khỏi ăn đồ dơ bẩn và phạm giới sát.

Lại một vị sư cũng tu thiền trong núi, thấy mình lẻ loi cô quạnh, nên sinh vọng tưởng muốn được một ít người cùng ở cho vui.

Vừa đâu có bà lão dẫn hai cô gái trẻ đẹp, bảo nhà ở dưới làng chân núi, tìm đến am tranh cầu xin dạy đạo. Vị tăng ban đầu không nghi ngờ, liền thuyết pháp khai thị.

Tới lui như thế lâu ngày, một hôm bà lão thưa bạch xin cho hai cô gái làm thị giả lo việc giặc giũ cơm nước để sư đỡ nhọc.

Sư nghe nói thoáng sinh lòng ngờ lạ, liền nghiêm trách từ chối. Ba người đó có vẻ hờn giận bỏ đi. Sư lén bám theo quan sát, qua một khúc quanh bỗng chợt mất bóng, đến xem thì đã cùng đường, lại không có nhà cửa chi cả, chỉ thấy ba gốc cổ thụ, một to hai nhỏ.

Ông suy nghĩ biết đây là yêu tinh cổ thụ làm quái; muốn đem rìu chặt đốn hoặc nổi lửa thiêu đốt để dứt trừ hậu hoạ. Vừa nghĩ đến đó bỗng thấy ba người hiện ra cầu sám hối và xin tha mạng.

Thế nên biết, tâm yên cảnh lặng, vọng khởi ma sinh, người tu phải ghi nhớ điều này.

03

3. Não Ma

Là loại ma chuyên phá rối, làm não loạn người tu. Có giống tinh mị mỗi loài đến theo giờ của nó, đại khái mỗi giờ có ba loài, mười hai giờ thành ba mươi sáu loại tinh thú.

Như giờ Dần đến, tất là loài cọp, beo, gấu; giờ Mão đến là loài mèo, thỏ, cáo; giờ Thìn đến là loài rồng, cá, thuồng luồng…Theo trong Tọa Thiền Chỉ Quán có thứ quỷ Du Lạp Kiết Chi, Trung Hoa gọi là Đôi Dịch, đầu mặt như cây đàn tỳ bà, bốn mắt, hai miệng, thường ưa khuấy động phá rối người tu. Chúng chờ khi người đang tụng niệm, hóa ra loài sâu trùng, hoặc bò lên khắp đầu mặt; hoặc chui vào miệng, lỗ mũi, mắt, lỗ tai; hoặc chui vào nách, bụng của người tu hành mà cắn, chích.

Đôi khi chúng kêu vang vào lỗ tai, làm thành tiếng ồn náo, nhức óc; hoặc chợt ôm giữ người, quơ tìm thì không đụng thấy.

Chúng còn hóa ra cảnh ngũ trần hoặc thuận, hoặc nghịch, hoặc không thuận nghịch, biến huyễn khôn lường, làm cho người tu hành loạn động chẳng biết đâu mà nhận thức, dễ mất định tâm.

Muốn đối trị với ba mươi sáu loài tinh thú, cứ theo giờ kêu tên của nó mà quở trách; với ma Đôi Dịch, nên tụng tam quy ngũ giới hoặc giới bổn, bởi chúng là thứ quỷ phạm tội phá giới. Làm như thế chúng liền ẩn mất. Hoặc cách đối trị tổng quát là nên nhiếp tâm vào chánh định, hay giữ tâm chuyên nhất chí trì chú niệm Phật, chúng sẽ biến tan.

Gặp cảnh ma chướng quá nhiều, người xưa còn có phương pháp là sắm hai mặt gương soi, rồi nhập thất bốn mươi chín ngày, chuyên tụng chú Đại Bi hoặc chú Chuẩn Đề gia trì vào trong gương.

Xong, treo hai tấm gương trên cao chiếu nghiêng xuống nơi chỗ thường ngồi trì niệm, một để trước mặt, một ở sau lưng. Nếu loài ma đến liền bị thâu bắt hiện hình vào gương, chừng ấy người tu hành muốn đuổi đi hay hành phạt gì tùy ý. Gương phép này lâu lâu phải dùng vải sạch lau chùi và gia trì thần chú một lần. (Trong kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy một cách khác là thường trì chú Lăng Nghiêm, hoặc chép chú Lăng Nghiêm đeo trên người.)

Làm như thế nó chẳng những phá trừ ma chướng, nhắc nhở cho sự trong sáng của tâm linh, mà còn tăng thêm phần ứng nghiệm. Đây là cách để đối trị nội ma và ngoại ma theo kinh nghiệm của tiền nhân.

Để nói rộng thêm, Ngoại ma còn là những ma về bàng môn ngoại đạo. Theo chỗ nhận thấy của tôi cùng nhiều đồng bạn, những vị kiếp trước hoặc kiếp này đã tu theo ngoại đạo, sau trở lại quy đầu Phật pháp; hoặc những vị tuy chỉ nương về Tam Bảo, nhưng xưa kia ông bà cha mẹ đều theo bàng môn, thường hay bị ngoại ma phá rối.

Bởi lối tu của ngoại đạo đều không rời phiền não hữu lậu, còn trong vòng tự cao chấp ngã, tham đắm quyền danh, nên hàng ngoại đạo hay quy tụ bè phái, không muốn cho người có ít nhiều liên hệ với phe mình tu theo đạo khác.

Tôi có người bạn xuất gia, tính nhu hòa hiền hậu, nhưng khi tu hành bị ngoại ma theo phá mãi. Tiếc vì ông bạn này còn vương hạt giống ngoại đạo không chí tâm dùng Phật pháp đối trị với tà pháp.Trong lúc cùng quẩn vì ma phá, thầy đi nhiều nơi tìm sự cứu độ với các người tu theo ngoại phái. Kết cuộc thầy lạc hẳn về ngoại đạo, bề ngoài là hình thức tăng già, nhưng bên trong lại chuyên tu về luyện điển, bác phá sự lễ Phật tụng kinh, cho là chấp hình tướng.

Lại có một nữ Phật tử, tính tình rất tốt, song thường lâm cảnh ngoại ma quấy nhiễu. Một độ nọ, trong lúc đang tu, cô bị ma ngoại đạo vây khổn, và nghe tiếng nói:

– Ông cha mi đều là người tu theo phái Ngũ Hành của chúng ta, sao mi không trở về gốc cũ, lại đi theo đạo Phật?

Cô kinh hãi chí tâm niệm Phật, mỗi câu niệm Phật thấy có một làn ánh sáng phát ra che phủ thân mình, bọn ma không làm chi được. Chúng tức giận bảo:

– Mi đừng cậy có phép Phật mà tự đắc tự kiêu, sẽ có người trưởng thượng của chúng ta đến đây cho mi biết thủ đoạn!

Nói xong, chúng liền rút lui. Khi ấy cô bỗng nghe tiếng một vị thiện thần bảo:

Bọn chúng ganh tỵ vì cô quy y Tam Bảo, không theo đạo ông cha mà thờ cúng chúng nó. Ngay bây giờ cả hai tay cô nên kiết ấn Kim Cang quyền.

Cứ giữ y như thế rồi thành tâm trì chú hoặc niệm Phật mãi, vì giây lát sẽ có trưởng thượng của bọn chúng đến đây, dùng phép ngũ lôi đánh và bắt hồn cô. Vây cánh chúng rất đông, tôi chỉ giúp đỡ phần nào thôi, bởi cô thế không làm sao xua đuổi bọn nó nổi. Sức của cô cũng chỉ có hạn, sợ e lâu ngày chẳng kham chống trả, tốt hơn nên vào chùa tu mới tránh khỏi nạn.

Cô liền y theo lời dặn, nắm tay lại kiết ấn và trì chú Đại Bi. Giây lát bỗng nghe tiếng ồn ào đông đảo, rồi có một làn chớp từ trên đánh xuống nặng nề như búa bổ, nóng rát rêm nhứt cả đầu.

Cô liền buông bỏ tất cả ý niệm, liều mạng chí tâm trì chú, không còn biết cảnh giới bên ngoài ra sao, giây lâu nghe xung quanh lặng lẽ, thân tâm trở lại trong trạng thái yên ổn bình thường.

Sau đó, cô nương vào chùa, nhưng vì còn bà thân già hay đau yếu không ai săn sóc, nên bắt buộc phải về nhà lo phần sinh kế để phụng dưỡng.

Một khoảng thời gian cách xa không gặp lại, tôi nghe tin cô hay nói chuyện hư huyền, và xướng ra làm bệnh, biết cô chống không nổi nên đã bị ma ám nhập, chỉ riêng thầm thương xót thở than!

Cho nên những vị trước kia có liên hệ với ngoại đạo luyện bùa phép, sau trở về tu Phật, nên nhìn gương trên mà lưu tâm cẩn thận.

04

Thiên Ma

Là loại ma ở cõi Tha Hóa Tự Tại, thuộc tầng thứ sáu của trời Lục Dục. Loại ma này có phước báo, hưởng sự vui mầu nhiệm cao tột của ngũ trần, cho đó là cảnh khoái lạc tuyệt đối, nắm quyền hạn về dục nhiễm, không muốn ai thoát khỏi phạm vi ấy.

Khi người tu hành đạt đến mức tu khá cao, tâm quang phát lộ, ánh sáng chiếu thấu lên cõi trời Tha Hóa làm cho cung điện ma rung động, chúng liền phát giác và vì sợ e cho có người giải thoát, quyến thuộc mình sẽ bị giảm bớt đi, nên tìm cách phá hoại.

Chúng hiện ra nhiều cảnh, hoặc hăm dọa, hoặc khuyến dụ, hoặc giúp cho sức tà định tà trí cùng thần thông cốt để gạt gẩm; lại thay phiên nhau rình rập không giây phút nào xa rời để chờ cơ hội thuận tiện.

Nếu người tu hành có một niệm sơ hở, liền bị chúng ám nhập, xúi giục làm những điều trái đạo đức, đời tu kể như đã hư tàn. Trong Luận Khởi Tín, Mã Minh Đại Sĩ từng khuyên dạy:

“Trong khi người tu hành tịnh tu, thường bị các thiên ma, ngoại đạo, hoặc quỷ thần làm não loạn. Chúng hiện các hình tướng ghê rợn để khủng bố, hoặc tướng nam nữ xinh đẹp mong quyến rũ.Có khi chúng hiện thân Phật, Bồ Tát hay chư Thiên đủ các tướng tốt trang nghiêm; hoặc nói các môn Đà Ra Ni; hoặc nói pháp bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ; hoặc nói các pháp bình đẳng, không, vô tướng, vô nguyện, khen ngợi cảnh không oán không thân, không nhân không quả, cứu cánh rỗng không vắng lặng, bảo đó là chân Niết Bàn…Hoặc chúng làm cho người tu hành biết đời trước của mình, thấu suốt việc quá khứ vị lai (túc mạng thông), thấu rõ tâm niệm mọi người (tha tâm thông), cho đến được biện tài vô ngại.

Chúng khiến người tu tham luyến danh lợi thế gian, tính tình thất thường, hay giận, hay cười, ưa ngủ, nhiều bệnh, dễ xót thương xúc cảm, có khi rất tinh tấn, lắm lúc lại trễ nãi biếng lười.

Hoặc chúng xui người tu hành sinh tâm nghi ngờ không tin, nhiều lo nghĩ, bỏ pháp tu căn bản trở lại tu các tạp hạnh, đắm nhiễm những việc triền phược ở thế gian. Hoặc chúng làm cho người tu hành được một ít phần tương tợ như Tam Muội, có thể ở trong định từ một ngày cho đến bảy ngày, thân tâm an vui không biết đói khát; song đó là do sức tà chứng của ngoại đạo gia bị, không phải thật Tam Muội.

Hoặc lại khiến cho người tu hành ăn uống không chừng độ, khi nhiều khi ít, sắc mặt biến đổi luôn. Khi gặp những cảnh như trên, người tu phải dùng trí huệ quán sát, gắng giữ chính niệm, đừng sinh tâm chấp trước mà lạc vào lưới tà. Phải kiên trì như thế mới xa lìa được ma chướng.”

Phiền Não Ma

Đó là chỉ cho các phiền não tham nhiễm, hờn giận, si, mê, khinh mạn, nghi ngờ, ác kiến; cho đến các thứ ma: năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới. Loại ma này cũng gọi là Nội ma, do lòng mê muội điên đảo trong chính mỗi người sinh ra, nên phải dùng tâm chân chính sáng suốt giác ngộ mà giải trừ.

Phàm phu tự mình đã có những nghiệp riêng, lại do cộng nghiệp sống chung trong khung cảnh, mà người xung quanh phần nhiều tính tình hiểm ác, nghiệp chướng lẫy lừng, nên dễ động sinh phiền não.

Có kẻ không chịu đựng nổi sự lôi cuốn của ngũ trần (các dục lạc bên ngoài) nên bị sa ngã. Có người vì nghịch cảnh, khiến cho bi thương sầu não, chí tiến thủ tiêu tan.

Những sự việc này xui khiến người tu nhẹ thì ưu sầu, uất ức sinh đau bệnh; nặng thì chán nản bỏ đạo, hoặc phẫn chí tự tận; nguy hại hơn nữa, tất đến chỗ đối với hàng xuất gia, tại gia đều mất hết mỹ cảm, khiến người ta tránh xa chán ghét, sinh việc khinh rẻ chê bai, không tin nhân quả, làm điều ác rồi phải đọa tam đồ.

Muốn đối trị thứ ma này, người tu hành phải quán xét phiền não là hư huyễn, xao động, nóng bức, trói buộc, tối tăm, chỉ làm khổ cho người và mình.

Dứt phiền não, ta sẽ trở về chân tâm tự tại giải thoát, mát lặng sáng trong, an vui mầu nhiệm. Đối với sự mê chấp từ năm ấm cho đến mười tám giới cũng nên quán như thế.

Trong Kinh Pháp Hoa, đức Phật bảo: “Các ngươi chớ nên tham đắm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thô tệ. Nếu mê đắm tham trước, tất bị nó thiêu đốt.

“Khi xưa đức Văn Thù hỏi một vị thiên nữ: “Ngươi xem mười tám giới như thế nào?” Thiên nữ đáp: “Như thấy kiếp lửa đốt thế gian!” Đây là những lời cảnh giác để phá trừ loại ma phiền não.

Phiền não ma hay Nội ma, nếu không chế phục được, tất sẽ chiêu cảm đến Ngoại ma ở ngoài đến phá.

Lời xưa nói: “Trong cửa có tiểu nhân, ngoài cửa tiểu nhân đến. Trong cửa có quân tử, ngoài cửa quân tử đến.

“Lại như khi ăn trộm đào ngách muốn vào nhà, gia chủ hay được tỏ ra bình tĩnh, răn trách, tất nó phải sợ hãi bỏ đi. Nếu chủ nhà kinh sợ rối rít năn nỉ, đó chính là thái độ khuyên rước trộm vào nhà vậy.

Kết lại, nếu nói gọn hơn, chỉ có Nội ma và Ngoại ma; Thiên ma cũng thuộc về loài Ngoại ma. Nhưng sở dĩ lập Thiên ma thành một loại riêng, là vì muốn cho người tu hành lưu ý đến sự phá hoại nguy hiểm tinh vi của nó.

Ngoài Phiền não ma, Ngoại ma, Thiên ma như trên, trong kinh còn có nói Bệnh ma và Tử ma. Bởi cơn đau bệnh thường làm cho người tu hành tiêu giảm công phu. Còn cái chết, do tu chưa đến đâu rồi chết có thể khiến người thối thất đạo quả, nên mới gọi là “ma”.

Nhưng Bệnh ma và Tử ma, đại ý chỉ cho sự chướng ngại của bệnh và chết thuộc thân tứ đại trên đường tu, không có tính cách phá hoại khuấy rối để giết hại đạo tâm theo nghĩa “ma” chân thật. Vì thế nên đây lược qua không đề cập đến. Sức tu của người thời nay, phần nhiều bị Phiền não ma hoặc Ngoại ma phá hoại, chưa đủ để cho Thiên ma phải ra tay. Loại ma này chỉ đến với những vị tu cao. Nếu Thiên ma quyết phá, những vị sức tu tầm thường khó có hy vọng thoát khỏi.

Trong Kinh Lăng Nghiêm, vì thương đường tu nhiều hiểm nạn, đức Phật khuyên các người tu hành tham thiền nên kiêm thêm trì chú Lăng Nghiêm, để được nhờ thần lực gia hộ, thoát khỏi nạn ma thành tựu chánh định. Ấn Quang đại sư đã bảo: “Mới xem qua, dường như Kinh Lăng Nghiêm khác quan điểm với Tịnh Độ, nhưng xét nghĩ sâu mới thấy kinh này trong vô hình đã khen ngợi tuyên dương Tịnh Độ. Tại sao thế?

Bởi bậc đã chứng đệ tam thánh quả A Na Hàm, còn có thể bị ma cảnh làm cho thối đọa; thì sự niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ càng nổi bật thêm tính cách trọng yếu, trong ánh sáng nhiếp hộ của đức A Di Đà không còn nạn ma.” Cho nên xét luận trên đường hành đạo, khi chưa được sinh về Cực Lạc, thì tu Tịnh Độ cũng có thể bị ma chướng. Song phần nhiều đó là do người tu hành không hiểu giáo lý, chẳng khéo trị tâm, để Nội ma phát khởi khiến chiêu cảm Ngoại ma đến phá hoại. Nếu giữ được tâm bình tĩnh, thì với oai lực công đức của câu hồng danh, ngoại ma không làm chi được, và phiền não cũng lần lần tiêu trừ.

Vì thế người tu Tịnh Độ, ma cảnh nếu có cũng là phần ít. Trái lại, người tu thiền ma cảnh hiện rất nhiều, bởi chỉ nương vào tự lực ( Trong kinh Lăng Nghiêm, phẩm cuối cùng, Đức Phật thống kê có 50 loại ma chuyên phá người tu thiền định, cực kì nguy hiểm. Ai tu thiền nhất định phải đọc kĩ phẩm này) Bậc Thiền Sĩ phải đủ năm điều kiện sau đây, mới mong đường tu được thành tựu: Một, là giới hạnh tinh nghiêm; hai, căn tính lẹ làng sáng suốt; thứ ba, phải hiểu rõ đạo lý, khéo phân biệt tướng chính, tà, chân, vọng; bốn, ý chí mạnh mẽ vững bền, và năm, là phải nương bậc thiện tri thức thông kinh điển, đã có kinh nghiệm tu thiền nhiều năm, để nhờ sự hướng dẫn. Nếu thiếu năm điều kiện đó tất dễ bị ma nạn. Tiên đức đã bảo: “Khô mộc đường thiền thác lộ đa!” Câu này ý nói: trong cơ thiền có rất nhiều duyên lạc lối.

Vì thế tu thiền muốn được thành tựu, phải là bậc lợi trí thượng căn. Bậc tôn túc Thiền tông khi xưa, lúc truyền pháp cũng căn dặn: “Không phải bậc thượng thượng căn. Đừng dễ dàng hứa nhận.” (Phi thượng thượng căn. Thận vật khinh hứa) Lời nói này đủ chứng minh cho điều nhận xét trên. Trong Luận Khởi Tín, sau khi kết hợp tổng quát về tinh yếu của pháp Đại Thừa, và trình bày xong đường lối tu tập, Mã Minh Bồ Tát lại bảo: “Cõi Ta Bà chúng sinh phiền não cang cường, chính tín khó vững, không thường được gặp Phật nghe pháp, đường tu nhiều hiểm nạn chướng duyên.

Nên biết Như Lai có phương tiện thù thắng, dạy cầu sinh về cõi Tịnh Độ ở tha phương. Như trong khế kinh nói: nếu chuyên tâm niệm Phật A Di Đà đem công đức tu hồi hướng cầu sinh Tây Phương, thì sẽ được về thế giới Cực Lạc, thường thấy Phật nghe pháp, không còn thối chuyển. Nếu người tu hành y theo đường lối này tu tập, quyết định sẽ được vào chánh định tụ.” Như trên, ta thấy chuyên tâm niệm Phật là phương tiện mầu nhiệm để thoát khỏi nạn ma, mau thành tựu chánh định.

Trích “Niệm Phật Thập Yếu”.

HT. Thích Thiền Tâm

Bài viết liên quan

Phản hồi