Tiểu sử Hòa thượng THÍCH HÀNH TRỤ (1904-1984)

PGĐS- Tưởng niệm 38 năm ngày Trưởng lão Hòa thượng Thích HÀNH TRỤ viên tịch, cùng đọc lại TIỂU SỬ của Ngài.

Hòa thượng Pháp danh Thị An, Pháp tự Hành Trụ, Pháp hiệu Phước Bình, thuộc dòng Lâm tế Chúc Thánh (1)  đời thứ 42. Ngài thế danh là Lê An, sinh năm 1904 trong một gia đình trung nông tại làng Phương Lưu, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ Lê Uyển, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Sử. Ông bà có bốn người con, cả ba người con trai đều xuất gia đầu Phật. Ngài xuất gia năm 12 tuổi ở chùa làng. Đến năm 19 tuổi, được Hòa thượng Giải Tường chùa Phước Sơn thế độ làm đệ tử và học tại đây. Năm 22 tuổi Ngài thọ Cụ Túc giới và làm Thư ký trong chùa.


Năm 1936, Ngài được mời làm Giáo thọ sau khóa trường Hương do Hội Lưỡng Xuyên Phật học tổ chức tại chùa Long Phước ở Vĩnh Long. Sau đó, Ngài được cử ra Huế học tại Phật học đường chùa Tường Vân, rồi đến chùa Tây Thiên với học tăng cả ba miền tham dự, do Quốc sư Phước Huệ làm Pháp Chủ giảng dạy.
Năm 1940, vì bệnh trầm trọng, Ngài phải trở vào Nam điều trị, và ở lại giảng dạy tại Ni trường chùa Kim Sơn ở Phú Nhận. 

Năm 1942, Ngài được Tổ Khánh Hòa bổ về Sóc Trăng làm Giáo thọ giảng dạy ở chùa Hiệp Châu, chi hội Kế Sách của Hội Lưỡng Xuyên Phật học và chùa Viên Giác tại Vĩnh Long.

Năm 1945, Ngài được Hòa thượng Vạn An mời về làm Giáo thọ giảng dạy tại chùa Hội Phước, Nha Mân tỉnh Sa Đéc. Trong thời gian ấy, Ngài làm Đệ nhất Yết Ma trong Đại Giới Đàn chùa An Phước, Châu Đốc.

Năm 1946, Ngài với ba vị sư đệ kết nghĩa lên Sài Gòn hợp nhau lập chùa Tăng Già, hiện nay là chùa Kim Liên, để tiếp độ chúng Tăng tựu về học. Đây là Phật học Đường đầu tiên ở đất Sài Gòn trong phong trào chấn hưng Phật giáo, mở đường cho các Phật học viện sau này phát triển.

Năm 1947, Ngài lại cùng ba vị sư đệ dựng nên ngôi già lam thứ hai là chùa Giác Nguyên để chuyển Chư Tăng về đây tu học, chùa Tăng Già biến thành trường Phật học dành cho Ni chúng. Hai đạo tràng này ngày thêm vang tiếng và Tăng Ni khắp nơi về học rất đông, góp sức phần lớn trong công cuộc chấn hưng Phật giáo tại đất Sài Gòn bấy giờ. Ngài đảm nhiệm Giám đốc Phật học đường Giác Nguyên và Hóa Chủ Phật học Ni trường Tăng Già.


Năm 1948, Ngài mở Đại Giới Đàn tại Phật học đường Giác Nguyên để truyền trao giới pháp cho Tăng Ni thọ trì tu học. Sau Ngài được đề cử làm Trưởng ban Nghi lễ của Giáo hội Tăng già Nam Việt vào năm 1951, làm chứng minh Đạo sư Hội Phật học Nam Việt tại chùa Xá Lợi Sài Gòn cho đến cuối đời (1956 – 1984), và làm Trưởng đồn Phật giáo Việt Nam tham dự Hội nghị Phật giáo Thế Giới kỳ 4 tại Nam Vang năm 1957.

 Năm 1963, Ngài khai mở Phật học đường Chánh Giác tại chùa Chánh Giác ở Gia Định do Ngài làm Giám đốc kiêm Trụ trì.

Sau đó Ngài về Trụ trì thêm chùa Đông Hưng ở Thủ Thiêm và chọn nơi này làm chốn tĩnh tu nhập thất vào những mùa An cư Kiết hạ.

Năm 1967 – 1969, Ngài làm Giới sư các Đại Giới đàn Hải Đức ở Phật học viện Hải Đức (Nha Trang) và Quảng Đức ở Phật học viện Huệ Nghiêm (Sài Gòn).

 Năm 1975, 1977 – 1980, liên tiếp Ngài làm Đàn đầu Hòa thượng các Đại Giới đàn tại chùa Ấn Quang do Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất mở ra để truyền trao giới pháp cho giới tử tồn quốc.

 Từ năm 1977 – 1981, Ngài kiêm chức Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tăng sự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.
Năm 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập, Ngài được cung thỉnh vào làm thành viên Hội đồng Chứng minh Trung ương.
 Nhận thấy thời gian đồng hành với lão bệnh, phát sinh nơi thân tứ đại, từ năm 1976 trở đi, Ngài phát nguyện nhập thất an tịnh cho đến khi về cõi Phật.

Vào ngày 29 tháng 10 năm Giáp Tý (1984), huyễn thân Ngài nhẹ nhàng chuyển hóa. Ngài trụ thế 80 năm, được 59 hạ lạp.


Ngài có công đức lớn trong nhiệm vụ giáo dục đào tạo nhiều thế hệ tăng tài, và truyền thừa chính pháp qua việc phiên dịch, ấn hành nhiều kinh luật phổ biến với các tác phẩm để lại :– Sa Di Luật Giải. – Qui Sơn Cảnh Sách. – Tứ Phần Giới Bổn Như Thích. – Phạm Võng Bồ Tát Giới. – Kinh A Di Đà Sớ Sao. – Kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên. – Kinh Hiền Nhân. – Kinh Trừ Khủng Tai Hoạn. – Tỳ Kheo Giới Kinh. – Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn. – Long Thơ Tịnh Độ. – Sơ Đẳng Phật học Giáo Khoa Thư. – Nghi Thức Lễ Sám. – Kinh Thi Ca La Việt. – Sự Tích Phật Giáng Thế. 

===

(1) Dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh là một trong ba dòng thiền lớn tại miền Trung Việt Nam. Nguyên ủy, dòng Thiền Lâm Tế Trung Hoa đến đời pháp thứ 21, thiền sư Vạn Phong Thời Ủy ở chùa Thiên Ðồng đã lập ra bài kệ truyền thừa pháp phái như sau:

Tổ đạo giới định tông/ Phương quảng chứng viên thông/ Hạnh siêu minh thật tế/ Liễu đạt ngộ chân không/ Như nhật quang thường chiếu/ Phổ châu lợi ích đồng/ Tín hương sanh phước huệ/ Tương kế chấn từ phong.

Tổ Minh Hải Pháp Bảo (thuộc thế hệ thứ 34 trong bài kệ truyền pháp trên) người tỉnh Phước Kiến Trung Hoa, sang Quảng Nam thời chúa Nguyễn, khai sơn chùa Chúc Thánh và lập ra dòng kệ truyền thừa pháp phái như sau:

-Minh thật pháp toàn chương

Ấn chơn như thị đồng

Chúc thánh thọ thiên cữu

Kỳ quốc tộ địa trường

Ðắc chánh luật vi tuyên

Tổ đạo giải hành thông

Giác hoa Bồ Ðề thọ

Sung mãn nhân thiên trung.

Dòng thiền truyền thừa của ngài gọi là Lâm Tế Chúc Thánh. Trong dòng Lâm Tế Chúc Thánh, các Tổ dùng bốn câu đầu để đặt pháp danh cho đệ tử và dùng bốn câu kệ sau để đặt pháp tự cho các vị Tăng Ni.

Theo đó, Hòa Thượng Hành Trụ húy (pháp danh) là Thị Thủy nên pháp tự phải bắt đầu bằng chữ tương ứng là chữ Hành.

Các vị Tăng đệ tử của Hòa Thượng Hành Trụ tại chùa Ðông Hưng đều có pháp Tự bắt đầu bằng chữ Thông (vì pháp danh bắt đầu bằng chữ Ðồng)…

(Theo Chư Tôn Thiền đức&cư sĩ hữu công Phật giáo Thuận Hóa tập 2)

 

Bài viết liên quan

Phản hồi