Đôi dòng về Phật hiệu A Di Đà và Pháp môn Tịnh độ
Hình ảnh Đức Phật A Di Đà đã đi vào tâm thức người Việt Nam cả trong cách chào hỏi. Niệm Nam mô A Di Đà Phật là đã nói thật nhiều, nói hết tất cả những ý nghĩa sâu xa của Phật đạo…
Sức lan tỏa của pháp môn Tịnh độ và hình ảnh Đức Phật A Di Đà đã đi vào tâm thức người Việt Nam cả trong cách chào hỏi. Niệm Nam mô A Di Đà Phật là đã nói thật nhiều, nói hết tất cả những ý nghĩa sâu xa của Phật đạo…
Ngày còn làm một chú điệu, cứ khoảng 16 giờ 15 phút là tôi được thầy nhắc nhở lo ngừng công việc, đi rửa tay chân để chuẩn bị lên chánh điện hồi chuông trống và đi công phu chiều. Ngôi chùa tôi ở thuở đó sống nhờ vào trồng trọt nên phải lao động chân tay. Công việc vất vả, nhưng dù có là vụ mùa hay công việc đang dang dở cũng phải ngưng để ưu tiên cho việc lên chùa tụng khóa kinh chiều.
Công phu chiều hàng ngày, kinh tụng chính là kinh A Di Đà, bản kinh mà tôi được thầy dạy phải học thuộc lòng lúc mới vào chùa làm tiểu.
Kinh tụng buổi chiều ngoài kinh A Di Đà, còn có kinh Hồng Danh và Thí Thực. Công phu chiều thường rơi vào tầm khoảng 17 giờ. Tùy theo mùa mà giờ giấc công phu có thể thay đổi cho phù hợp nhưng nó là sinh hoạt tu tập không thể thiếu trong thời khóa hàng ngày.
Xin chia sẻ qua để quý vị hiểu thêm về pháp môn niệm Phật A Di Đà của hệ phái Tịnh độ. Trước thế kỷ thứ III, theo Cựu tạp thí dụ kinh, danh hiệu của Đức Phật A Di Đà được nhắc đến sớm nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Pháp môn niệm Phật cũng đã được đề cập trong Lục độ tập kinh do Khương Tăng Hội dịch sang chữ Hán.
Đến thế kỷ thứ V, thiền sư Đàm Hoằng (mất năm 455) đã sang Việt Nam, ngài ở tại chùa Tiêu Sơn 1 truyền đạo và phổ biến bản kinh Vô Lượng Thọ. Đàm Hoằng là nhà sư Trung Quốc chuyên hành trì pháp môn Tịnh độ với ước nguyện vãng sinh cực lc. Vô Lượng Thọ là bản kinh căn bản khuyên tu tịnh độ.
Từ đây, pháp tu tịnh độ đã trở thành một trào lưu phổ biến ở nước ta. Tuy nhiên, lịch sử phát triển của pháp tu này bị ngắt quãng cho đến năm 826.
Điều thú vị khi chúng tôi dập các văn bia trong quá trình điền dã, khảo cứu về các vị thiền sư thì tất cả các văn bia còn lại của thời lý nói chung đều có chữ mở đầu: A Di Đà Phật. Đây là danh hiệu của Phật A Di Đà, giáo chủ cõi tịnh độ. Việc thờ cúng Phật A Di Đà và Bồ Tát Quan Âm (hay còn gọi Phật Bà Quan Âm, đã trở nên phổ biến ngay từ thời kỳ này.
Khi nghiên cứu về hệ phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, chúng ta biết, đây là một hệ phái có ảnh hưởng của tư tưởng Bà La Môn và mật giáo. Trong các hệ phái Thảo Đường và Vô Ngôn Thông sau này khó có thể tìm ra mối liên hệ nổi bật nào của tịnh độ với tông các thiền phái này.
Vậy vì sao tịnh độ tông lại phát triển rộng rãi trong đời sống dân gian và có những thành tựu căn bản vào giai đoạn này? Đi sâu vào bộ kinh mà tổ Tỳ Ni đã dịch là Kinh Đại Thừa Phương Quảng Tổng Trì, ta sẽ có câu trả lời thú vị.
Đây là bộ kinh căn bản của mật giáo (trong kinh dẫn lời đức Phật Thích Ca dạy A Dật Đa: “Này A Dật Đa! Ông nên thọ trì mật giáo của Như Lai, dùng thiện phương tiện mà rộng thuyết pháp cho mọi người”.
Nhưng ngay trong phần đầu, lại là những câu chuyện ca ngợi Tỳ Kheo Tịnh Mạng, một tiền kiếp của Phật A Di Đà. Tỳ Kheo Đạt Mạ do chỉ trích tỳ kheo Tịnh Mạng mà sau phải ở cõi ta bà với đầy những khó khăn uế trược.
Còn Tỳ Kheo Tịnh Mạng thì đã thành Phật sớm hơn, không phải đọa vào địa ngục, bàng sanh hay làm thân người hạ tiện như Tỳ Kheo Đạt Mạ. Tỳ kheo Tịnh Mạng đã thành Phật ở một cõi nước hoàn toàn thanh sạch. Đó chính là cõi nước Tịnh Độ và ngài có tên gọi là Phật A Di Đà.
Đặt bộ kinh này trong bối cảnh ra đời, (được tổ Tỳ Ni dịch tại chùa Pháp Vân; là bộ kinh căn bản khuyên hành Mật giáo), chúng ta có thể hiểu vì sao, bên cạnh sự tiếp nối từ lịch sử, với sự truyền thừa của trào lưu tịnh độ từ thế kỷ thứ V, các vị thiền sư của hệ phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi dù thực hành đạo Phật với ảnh hưởng lớn của Mật Pháp lại xưng tán Phật A Di Đà để làm biểu trưng và đưa pháp môn Tịnh độ vào trong lòng đời sống xã hội.
Thiền sư Pháp Hiền, người truyền thừa tiếp nối tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã dựng nên trung tâm của thiền phái là chùa Chúng Thiện thuộc vùng núi Tiên Du, Bắc Ninh. Vùng núi này, thiền sư Đàm Hoằng hơn một thế kỷ trước đã truyền bá và phát triển pháp tu tịnh độ với bản kinh Vô lượng thọ.
Như vậy, Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã được khơi nguồn và tiếp nhận từ bản kinh căn bản, kinh Đại Thừa Phương Quảng Tổng Trì với sự xưng tán ngợi ca đức Phật A Di Đà, giáo chủ cõi tịnh độ. Trung tâm đầu tiên của thiền phái này cũng được lập tại vùng đất có lịch sử phát triển mạnh mẽ của phái tịnh độ.
Để truyền bá hệ tư tưởng mới của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, hẳn thiền sư Pháp Hiền đã phải khéo léo vận dụng những thiện xảo để vừa kế thừa và phát triển những thành quả và sự phát triển của hệ phái cũ do tổ Đàm Hoằng tạo dựng, vừa khéo léo xiển dương và truyền bá một đường hướng và hình thức tu tập mới mẻ hơn.
Đây cũng có thể coi là một trong những nguyên nhân dẫn đến những ảnh hưởng và biểu hiện rõ rệt và sự phát triển của yếu tố Tịnh độ trong tư tưởng của các thiền sư truyền thừa hệ phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Những pho tượng Phật Di Đà tiêu biểu cùng với pháp môn niệm phật và lời chào cửa miệng mở đầu bằng Phật hiệu A Di Đà được hình thành và lan truyền trong dân gian vẫn còn duy trì đến ngày nay.
Tuổi nhỏ vào chùa tôi đã được dạy dỗ và lớn lên trong sinh hoạt đó. Lối sống mà tôi được hấp thu một cách tự nhiên từ thầy tổ. Có lần ngồi dò kinh thầy tôi bảo thế này: “Chư Tổ sắp xếp buổi chiều tụng kinh Di Đà là các ngài ý thức về vô thường, biết tối đến nằm xuống còn trở dậy trên chính cái giường đó không? Nên trước khi đêm xuống, chìm vào giấc ngủ, chúng ta tụng kinh Di Đà, niệm danh hiệu của Ngài, là lỡ nếu có vô thường ập đến thì biết đường mà về với cõi Phật A Di Đà”.
Lớn lên, học thêm nhiều kinh điển khác nhưng tôi thấy hai buổi tụng kinh duy trì trong các ngôi chùa vẫn không thay đổi trên ba miền. Danh từ mà chư Tổ dùng cho buổi tụng kinh sáng tối là công phu: công phu khuya và công phu chiều. Phải ở chùa thực tập từ nhỏ và duy trì hai thời kinh khuya và tối mới thấy là một “công phu” thực sự của nếp sống nhà chùa.
3 giờ 15 phút sáng thức dậy, thỉnh chuông thức chúng. 3 giờ 30 phút thỉnh chuông Đại hồng. 4 giờ câu chung bảng để vào hồi chuông mõ bắt đầu cho công phu khuya bằng kinh Lăng Nghiêm.
Buổi chiều cũng vậy, 16 giờ 15 phút thỉnh chuông báo chúng trước 15 phút. 16 giờ 30 phút vào hồi chung bảng và câu chuông mõ để vào thời công phu chiều. Đây là nếp sống sinh hoạt đã ảnh hưởng sâu đậm vào lối sống tu tập của các ngôi chùa Việt Nam gần 1.000 năm qua.
Trong chiều dài thời gian đó đủ để niềm tin về thế giới Tây phương cõi cực lạc của Phật A Di Đà thấm sâu trong tâm thức của người Phật tử Việt. Dựa trên nguyên tắc tương tác âm siêu dương thái nên người Phật tử tìm cách tụng niệm siêu độ cho thân nhân khi qua đời. Mà cầu siêu thì phải “nhờ” đức Di Đà tiếp dẫn. Trong phần lớn tâm thức mọi người học Phật thường nghĩ, cầu siêu là cầu về cõi Tịnh độ.
Vì vậy mà giáo lý về Tịnh độ có cơ duyên dễ phổ cập vào quần chúng. Dân tộc Việt Nam vốn nặng về thờ cúng ông bà tổ tiên. Một dân tộc mà quanh năm lễ chạp nhất nhất đều phải có mâm cơm cúng tổ tiên ông bà, nên ma chay giỗ kỵ là phải nhờ đến thầy hướng dẫn tụng niệm cầu siêu.
Đạo Phật là đạo hiếu, hiếu đạo đòi hỏi con cháu biết trả ơn mẹ cha bằng hướng dẫn tu tập. Hình thức hướng dẫn tu tập nhanh nhất và hiệu quả là giúp cho cha mẹ nắm lấy danh hiệu Phật A Di Đà để trì niệm cho tâm dễ đạt được tịnh niệm và chuyên chú. Khi chết thì lo cầu siêu tụng niệm, cầu vãng sinh về thế giới Tây phương
Tịnh độ. Sau khi mất, ta không cho chết là hết, vậy chúng sanh đó sẽ đi về đâu? Niềm tin người bình dân rất đơn giản: Về với cõi Phật. Ai không muốn về đó chứ. Về đó rồi thì thế là người sống yên lòng. Mà muốn về với cõi Phật thì sống phải trì niệm danh Phật A Di Đà, thường cầu được “đức Di Đà xoa đảnh thọ ký”. Thế là tin một cách chắc thực ta sẽ về với cõi giới phương Tây nơi Ngài Di Đà đang thuyết pháp độ sanh.
Trong kinh Phật đã nói đến có hẵn một thế giới cõi Phật như thế sẵn sàng tiếp đón chúng sanh ở cõi ta bà này. Người sống tu tập cũng với ước muốn mong được sanh về đó. Nên cầu siêu là cầu siêu sanh về đó. Tịnh độ cõi Phật Di Đà như thế phù hợp với nhu yếu tâm thức phần đông con người chúng ta.
Chính bởi vậy nên chúng ta hiểu vì sao vào thời mà đạo Phật thấm sâu vào lòng dân tộc như thời Lý – Trần, pháp môn tịnh độ và Phật hiệu A Di Đà trở thành một pháp tu phù hợp cho mọi căn cơ thể nhập được Phật đạo và khiến đạo Phật có thể lan rộng, thấm sâu trong đời sống của mọi tầng lớp xã hội.
Chư Tổ sư Phật giáo Việt Nam phần lớn liễu ngộ nhờ tham thiền. Nhưng các ngài vẫn không thấy trở ngại khi truyền dạy niệm Phật, tu tập Tịnh độ cho mọi người. Pháp môn niệm Phật dễ phổ cập đến quảng đại quần chúng. Tịnh độ được nhìn dưới con mắt bậc thiền sư đạt đạo: Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
Đây quả là nét đặc sắc của Phật giáo Việt Nam trong sự dung hợp Thiền-Tịnh-Mật. Tịnh độ cùng song hành với thiền, như một con chim có hai cánh. Thiền làm cho tinh thần Phật giáo phóngkhoáng, khơi mở sự khám phá đến vô tận, không cố chấp giáo điều hạn hữu ở một hình tướng, một tư tưởng nào.
Tịnh độ làm cho Phật giáo gần gũi dung dị, mang sắc thái bình dân dễ ngấm sâu và lan rộng vào đời chứa chan tình cảm.
Đạo Phật lấy nhận thức về khổ để làm động lực dấn thân hành đạo vừa là nuôi dưỡng tâm bồ đề trên đường đi đến quả vị giải thoát. Nên, nếu có một ý niệm về Tịnh độ được nhận thức như là sự xa lánh cuộc đời thì đó không còn là pháp tu của đạo Phật.
Đạo Phật với tinh thần nhập thế, người Phật tử dấn thân đi vào cuộc đời để độ sinh. Vì vậy, phụng sự chúng sinh mang ý nghĩa cao đẹp nhất, đó là hành động cúng dường chư Phật.
Dùng tư tưởng duy tâm Tịnh độ hay Tự tánh Di Đà, con đường Phật giáo thể hiện qua pháp tu Tịnh độ đã thể hiện được vai trò tích cực trong công cuộc cứu độ chúng sanh. Đức Phật A Di Đà được biết là vị có nguồn ánh sáng vô tận và thọ mạng vô tận. Hai yếu tố này là nguồn cảm hứng vô bờ cho người tu tập.
Có một ứng xử trong văn hóa mà tôi được dạy từ khi bước chân vào chùa, đó là cách chắp tay lại để vái chào, niệm Nam mô A Di Đà Phật. Câu chào A Di Đà Phật là nét đẹp văn hóa thật đặc sắc và đậm đà chất Phật giáo Việt Nam. Sức lan tỏa của pháp môn Tịnh độ và hình ảnh đức Phật A Di Đà đã đi vào tâm thức người Việt Nam biểu hiện cả trong cách chào hỏi. Niệm Nam mô A Di Đà Phật là đã nói thật nhiều, nói hết tất cả những gì cần nói trong ý nghĩa sâu xa của Phật đạo.
Nguồn: phatgiao.org.vn
Phản hồi