TƯỢNG MẪU VÀ BÀI TRÍ TƯỢNG MẪU TRONG CHÙA VIỆT

LTS: Nghiên cứu, lý luận và phê bình mỹ thuật là môt ngành học đòi hỏi sinh viên hệ Đại học và sau Đại học của ngành mỹ thuật phải dày công nghiên cứu mới trưởng thành được trong nghề của mình, nhằm lan tỏa và tạo động lực cho những độc giả của Báo cùng chung niềm đam mê nghiên cứu Mỹ thuật truyền thống và Mỹ thuật Phật giáo. Được sự đồng ý của tác giả, Ban biên tập tòa soạn trân trọng giới thiệu bài viết của PGS-TS Trần Thị Biển, Giảng viên cao cấp, Đại học Kiến trúc Hà Nội

“Ai có lòng nhân ái, có tự do thì lời nói cất lên đầu tiên phải là mẹ!”

Phật giáo là một tôn giáo lớn ở Ấn Độ cổ đại, trở thành một tôn giáo thế giới, có ảnh hưởng tới đời sống tinh thần của người Việt Nam. Trải qua nhiều thế kỷ đạo Phật đã trở thành một hệ tư tưởng rộng khắp (phổ biến) trong xã hội đương thời, góp phần thống nhất ý chí dân tộc tạo nên khối đại đoàn kết rộng lớn để giải phóng và phát triển đất nước. Tuỳ thuộc vào mỗi giai đoạn mà đạo Phật phát triển hay suy vong, nhưng thực tế chùa làng có mặt tại các làng quê dù to hay nhỏ đã tạo cho con người chỗ dựa tinh thần. Cũng chính vì thế mà hệ thống tượng Phật cũng được bài trí trong chùa ngày một qui mô và đông đúc hơn, chùa làng không chỉ thờ Phật mà còn  thờ cả Thánh và Mẫu. Biểu hiện mô hình bài trí tượng trong chùa cho biết nghi thức thờ tiền Phật hậu Mẫu hay tiền Phật hậu Thánh tuỳ thuộc vào tượng thờ trong chùa. Ở Việt Nam tháng bảy âm lịch hàng năm lấy ngày lễ vu lan để lan tỏa, giáo dục các thế hệ biết tưởng nhớ công ơn cha mẹ, tổ tiên, biết yêu thương và trân trọng những gì mình đang có, khuyến khích những hành động, việc làm thiện để bày tỏ lòng hiếu thảo với mẹ cha. Bài viết bàn luận về một số quan niệm thờ mẫu trong các ngôi chùa của người Việt dưới góc nhìn mỹ thuật, mong muốn đóng góp tiếng nói nhân văn cho ngôi chùa thờ Phật ở Việt Nam hiện nay.

Tuy không nằm trong hệ thống bài trí tại ban thờ Mẫu, nhưng một số tượng cũng được coi là tượng Mẫu, mang tính nữ và được hoá thân thành các tượng thần nghiêm trang bày trong chùa thờ Phật như: Tượng Quan thế âm bồ bát, Quan âm Tống tử, Quan âm Nam Hải, Quan âm Thiên thủ thiên nhãn…mang dáng hình của người nữ, mẫu, mẹ. Xuất phát từ tư duy nông nghiệp mong mưa thuận gió hoà nên người Việt cổ đã thờ các vị thần như: Mây – Mưa – Sấm – Chớp và được Phật hoá tạo thành một một hệ thống tứ pháp (pháp Vân, pháp Vũ, pháp Lôi, pháp Điện).  Thông qua lịch sử, qua những câu chuyện giao tiếp văn hoá. Chùa Dâu (Bắc Ninh) thờ Tứ pháp và một số chùa ở Hà Nội, Hưng Yên có thờ một trong những tượng này. Các thần thuộc hệ thống Tứ pháp này cũng được thể hiện thành tượng dưới dạng bà mẹ được Phật hoá mang tư thế và nét mặt nhân hậu, trang nghiêm. Nhiều ngôi chùa đã đưa hệ thống tượng Mẫu trở thành Ban thờ Mẫu như điểm nhấn cho không gian thờ Phật nhưng cũng như khẳng định vai trò thờ Mẫu/Mẹ trong mỗi không gian thiêng.

Tượng Quan âm Tống tử chùa Kim Liên (Hà Nội)

Bài trí tượng Mẫu trong một số ngôi chùa Việt

Trong quá trình đạo Phật du nhập vào nước ta và một bộ phận quan trọng của nó đã phát triển theo khuynh hướng dân gian hoá giữa đạo Phật và Mẫu, chúng có sự thâm nhập và tiếp thu ảnh hưởng lẫn nhau khá sâu sắc. Tính phổ biến nhất là hiện nay ở các ngôi chùa (đặc biệt là chùa làng) đều có điện thờ Mẫu, với mô hình “Tiền Phật hậu Mẫu”. Việc người dân đi lễ chùa và cúng Mẫu đã làm tăng thêm sự phong phú, ấm cúng cho các ngôi chùa, cho thấy đạo Mẫu đã du nhập vào chùa một cách dễ dàng, ngược lại hình tượng Phật cũng đã được thờ hay đi vào các đền phủ thờ Mẫu. Thực tế trong các điện thần hay cách bài trí  tượng thờ ở những đền, phủ ta đều thấy có hình tượng của Phật. Mà đại diện cao nhất là Phật bà Quan Âm cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh. Điều đó cũng thật dễ hiểu hình tượng Quan Âm trong Phật giáo ấn Độ vốn  là một nam thần nhưng khi qua Trung Quốc và nước ta đã bị “Nữ thần hoá”, thậm chí là “Mẫu hoá” để trở thành Quan Âm Thánh Mẫu của đạo Mẫu Việt Nam. Việc thờ Phật và Mẫu là tín ngưỡng của người dân cùng hướng về tinh thần từ bi, bác ái, tinh thần cộng đồng, khuyến thiện trừ ác. Theo Phật là để tu nhân tích đức, còn theo Mẫu là để được phù hộ độ trì mang lại sức khoẻ, tài lộc may mắn cho đời sống hiện tại.

 

Chùa Kim Liên (Hà Nội) là ngôi chùa được ví như là Bông sen vàng của Thủ đô Hà Nội. Với niên đại xây dựng thời Tây Sơn, hệ thống tượng Phật mang niên đại thế kỷ XVII, XVIII…riêng toà thờ Mẫu được xây dựng muộn hơn riêng biệt ở phía sau Phật Điện. Đây có thể coi là một ngôi chùa có một hệ thống tượng Mẫu khá đầy đủ, đồng thời nó tạo cho ngôi chùa có mô hình chùa Tiền Phật, hậu Mẫu, đáp ứng nguyện vọng về tâm linh cho các tín đồ quanh vùng và các nơi khác đến chùa tham quan tìm hiểu và cầu nguyện. Hầu hết các tượng được bày trong toà thờ Mẫu ở chùa Kim Liên được làm vào những năm gần đây. Ban Tam toà thánh Mẫu được bài trí ở giữa, hai bên là Ban Hội đồng các quan và Ban Bát Bộ Sơn Trang. Ngoài mô hình tượng tam toà Thánh Mẫu cùng các tượng nhỏ như cô hầu, và các Mẫu đại diện cho các vùng, miền ra thì chùa còn có tượng Công chúa Quỳnh Hoa con của vua Trần Hưng Đạo và tượng Từ Hoa công chúa tương truyền là con của vua Lý có công dạy dân trồng dâu nuôi tằm và có công lập chùa. Đây là những pho tượng đại diện cho việc thờ ở chùa có tính lịch sử địa phương, nơi đây vùng đất Tây Hồ xưa đã từng đã có hình ảnh về nữ thần giúp dân làm ăn sinh sống và truyền nghề.

Khám thờ Từ Hoa công chúa chùa Kim Liên (Hà Nội)

Trong hệ thống kiến trúc tôn giáo, chùa làng nói chung và chùa làng có ban thờ Mẫu nói riêng là những công trình kiến trúc tôn giáo có nhiều nét đẹp truyền thống mà ở đó yếu tố ánh sáng giữ vị trí cần mang nét riêng cho mỗi ngôi chùa. Khi vào chùa chúng ta luôn có cảm giác nhẹ nhàng, âm u như thể đang bước vào một thế giới khác với thế giới bên ngoài. Đó chính là sự phụ thuộc vào qui luật hay nguyên tắc bài trí tượng và đồ thờ, nhờ vào qui luật của tự nhiên mà ánh sáng trong kiến trúc nội thất có tượng thay đổi theo từng góc độ khác nhau. Ở khía cạnh nào đó ta thấy nội thất chùa đã giải quyết được những ưu điểm của ánh sáng nôị thất bằng ánh sáng nhân tạo mang tính khả quan, vì ánh sáng trong chùa luôn có sự thay đổi và tách biệt. Những vị trí bày tượng cũng khác nhau, dẫn đến vị trí của sáng tối cũng không hoàn toàn đều nhau. Chùa làng phổ biến với cách bầy tượng tiền Phật hậu Thánh hoặc tiền Phật hậu Mẫu. Với mô hình bày tượng thờ ở toà Mẫu luôn có tượng Mẫu (Tam toà Thánh Mẫu) đi cùng là tượng đức Thánh Trần  với quan niệm về cha và mẹ (mẹ là mẫu Liễu Hạnh, cha là đức Thánh Trần Hưng Đạo).

Quan niệm về màu sắc trong bài trí ban thờ Mẫu ở chùa

Với cách bài trí thờ tượng Mẫu ở chùa làng, ban thờ Mẫu là nơi đón nhận nhiều màu sắc bởi tự thân các pho tượng đã mang lại những màu sắc sặc sỡ và càng lung linh hơn khi có ánh sáng của đèn nến hay ánh sáng tự nhiên phản chiếu làm cho các chi tiết của tượng được bộc lộ rõ. Cũng chính vì vậy mà yếu tố khối của tượng trong ban thờ này ít bộc lộ hơn so với các tượng ở các ban thờ khác. Duy chỉ thấy ở đây có sự lộ rõ của mặt tượng với màu hồng nhạt và những trang trí trên trang phục, việc thay đổi màu sắc làm cho không gian  thờ vừa thực vừa ảo. Điều này cũng thật phù hợp với tín ngưỡng dân gian và ý nghĩa văn hoá. Màu sắc trong nội thất thờ Mẫu có liên quan đến không gian thờ: Mẫu Thượng thiên, Mẫu Thượng ngàn…thường được mô tả bằng màu xanh như xanh lục, xanh lam, màu tím trên trang phục, màu hồng tượng trưng cho da mặt…

Với kiến trúc tôn giáo nói chung, kiến trúc nội thất nơi thờ Mẫu nói riêng mỗi vùng, miền đều có những đặc điểm riêng, như mô hình bài trí tượng thờ trong chùa hay nơi thờ Mẫu của người Nam Bộ cũng khác với mô hình ở vùng châu thổ Bắc Bộ. Với chùa và nơi thờ Mẫu khu vực phía Nam chú ý đến yếu tố hệ thống tượng Phật mà đó là màu sắc hay những bức vẽ theo điển tích, đằng sau tượng Quan Âm Bồ Tát hay A Di Đà thường có đèn chiếu sáng hoặc Phát quang. Với tượng Mẫu cũng vậy ánh sáng trong nội thất khu thờ, hay nơi đặt tượng Mẫu cũng được hết sức chú ý đến yếu tố ánh sáng. Điều đó làm cho chúng ta cảm nhận được những sắc thái của không gian thờ rất rõ nét. Với cách bày đặt ánh sáng như vậy tạo điều kiện cho việc tác động với ánh sáng thiên nhiên, có khi là ánh sáng trên núi cao luồn lách khúc xạ qua ô cửa, qua tầng mái làm nên sự biến hoá trong không gian huyền ảo, đề cao giá trị thẩm mỹ và hiệu quả về tâm linh.

Nếu như màu sắc trên khuôn mặt của các pho tượng biểu tượng cho thế giới cực lạc thờ trong chùa thường được tô màu hồng đào (không xử dụng màu trắng), thân tượng thường tô màu vàng (thếp vàng) là theo quan niệm cứu độ chúng sinh, tượng kim cương tô sắc trắng biểu tượng cho sự khuyến thiện. Nhưng khái niệm màu sắc trên tượng vừa trừu tượng vừa đa nghĩa, có tượng tô màu đen, màu đỏ đều được ứng với ý nghĩa tín ngưỡng hoặc quan niệm lịch sử… Với tượng Mẫu, màu đỏ hoặc sắc đỏ trên da mặt được cảm nhận qua không gian có tượng Mẫu Thượng thiên, Mẫu thượng ngàn… những tượng Mẫu khác thường được tô màu trắng ngà hoặc trắng hồng, nhưng cùng thống nhất với việc cứu độ con người trong thế giới hiện tại, đó là sức khoẻ, tiền tài, quan lộc…

Ban thờ sơn trang – Phủ Tây Hồ – Hà Nội

Mô hình bài trí nơi thờ Mẫu trong chùa làng cũng được tiếp nhận từ Phật giáo, cho nên hình ảnh Mẫu hay mô hình thờ Tam phủ, Tứ phủ trong chùa làng cũng có những không gian và ánh sáng bên ngoài rất riêng. Tuy vậy ở đó chỉ là những phật điện nhỏ với diện tích hết sức khiêm tốn chứ không hoành tráng như ở phủ thờ, nhưng mô hình này lại khá phổ biến trong các chùa làng hiện nay. Kiến trúc nơi thờ Mẫu ở chùa, đền nói chung ở phủ thờ Mẫu nói riêng nó rất được coi trọng cả nội thất và ngoại thất. Đối với những phủ thờ Mẫu ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ chủ yếu là thờ Mẫu Liễu Hạnh, cụ thể là ở Phủ Giầy và phủ Tây Hồ là cả một nghệ thuật về việc bài trí ánh sáng và bố cục, địa thế bên ngoài kiến trúc. Với tổng thể kiến trúc ở đây đều toát lên một màu sắc, ánh sáng của ngoại thất kiến trúc hùng vĩ và rộng lớn nhưng linh thiêng huyền bí.

Những bàn luận về giá trị lịch sử và nghệ thuật

Cách tạo hình của tượng Mẫu mang nét tương đồng với tượng Phật, về cơ bản tượng được tạc với dáng ngồi toạ thiền, đặt trong khám thờ. Các tượng hầu thường đứng trong trang phục duyên dáng. Màu sắc trên tượng Mẫu không giống tượng Phật, trên mình tượng thường được mặc trang phục màu sắc cơ bản ứng với vị trí thờ. Điều này khác với những màu sắc sơn son thếp vàng nhưng mang nhiều sắc nâu (thiền) trong không gian thờ Phật. Khối tượng cơ bản là các khối biến thể, ít bộc lộ bởi sự che chắn của trang phục và những phụ kiện khác, đó là nét tương đồng với tượng Phật bởi sự tĩnh tại, khép kín. Nhưng màu sắc và không gian lại tác động vào tượng khi có lễ hội và ánh sáng làm cho tượng Mẫu nơi có không gian ánh sáng mạnh tạo cảm giác chuyển động bởi ánh sáng của nội thất tự thân hoặc nhân tạo. Nếu trong không gian thờ Phật ánh sáng nội thất bộc lộ từ từ như toà Tiền đường có ánh sáng mạnh nhất, toà Thiêu hương ánh sáng vừa thì toà Thượng điện lại là nơi có ít ánh sáng nhất hay tối nhất. Với không gian thờ Mẫu lại là thứ ánh sáng dàn trải, ở nơi thờ tượng Tam Phủ, Tứ Phủ là nơi thờ chính, không gian được coi trọng, là điểm nhấn mạnh nhất nên chủ yếu là ánh sáng nhân tạo, làm nổi bật nghệ thuật trang trí, màu sắc và đường nét trên tổng thể ban thờ mà làm nhoà đi sự bộc lộ của khối tượng.

Kiến trúc ngoại thất nơi thờ Mẫu là lối kiến trúc theo trục không gian, đôi khi là những biểu tượng, tượng trưng mang tính nội hàm qui ước. Phần lớn các kiến trúc Phủ thờ Mẫu có niên đại muộn, song ngày càng mang tính quy mô, bề thế, điều đó đáp ứng được nhu cầu của người dân Việt trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Tín ngưỡng đạo Mẫu chính là tìm đến giá trị nhân văn, xây dựng cho xã hội, cho dân tộc một nền văn hoá mới, ngày càng nâng cao yếu tố Chân – Thiện – Mỹ. Hướng tới một xã hội hiện đại, phồn vinh: “Trong khung cảnh nông thôn Việt Nam, sự thâm nhập và ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai thứ tôn giáo tín ngưỡng dân giã là điều dễ hiểu. Cũng là tín ngưỡng dân giã của người dân, cùng hướng về cái từ bi bác ái, tinh thần cộng đồng, khuyến thiện, trừng ác, nền tảng của những nguyên tắc ứng xử xã hội cổ truyền. Với lại, dường như hai tín ngưỡng này có cái gì đó bổ sung cho nhau, đáp ứng nhu cầu tâm linh của người nông dân: Theo Phật để tu nhân tích đức cho đời kiếp sau được lên cõi Niết bàn cực lạc; còn theo đạo Mẫu là mong được phù hộ độ trì mang lại sức khoẻ, tài lộc, may mắn cho đời sống hiện hữu thường ngày”[1].

Từ hệ thống và cách bài trí tượng thờ Mẫu trong chùa của người Việt cho chúng ta thấy bộc lộ rõ nét những biểu tượng mang ý nghĩa vũ trụ quan, nhân sinh quan sâu sắc. Quan niệm Mẫu – Mẹ, nữ tính thâu tóm quyền năng sáng tạo, sinh sôi, bảo trừ. Với các tượng đều có tên, vị trí bày tượng tạo ra sự thống nhất hay còn mang tính cung đình hoá. Việc cung đình hoá này thông qua cách thức bài trí, trang phục, màu sắc của các tượng và cả các nghi thức bày tượng có thứ bậc. Thông qua mô hình bài trí tượng trong các điện thờ Mẫu và ngôi chùa thờ tiền Phật hậu Mẫu cho thấy tín ngưỡng thờ Mẫu và nghi thức bài trí nơi thờ Mẫu là do con người sáng tạo ra. Nhưng nghi thức và tín ngưỡng thờ Mẫu trong các thần điện lại chi phối con người và nó trở thành yếu tố tinh thần hết sức có ý nghĩa trong cuộc sống thực tại.

Tuy có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo từ ngoài du nhập vào Việt Nam, nhưng người Việt đã biết Việt hoá để phù hợp với hoàn cảnh của địa phương và quan niệm sống của mình. Mô hình bài trí tượng thờ Mẫu trong chùa Việt nói chung, vùng đồng bằng Bắc bộ nói riêng  mang nét tiêu biểu riêng biệt nhằm hướng tới khai thác các mặt của đạo lý, cách ứng xử giữa con người với con người, xây dựng hình tượng Mẫu – Mẹ gần gũi thân thiết gắn với hiện tại nhiều hơn đạo Phật từ bi hỉ xả, mong ước mai sau. Trong quá trình du nhập và phát triển ở Nam bộ giao lưu văn hoá giữa các vùng miền khác nhau cho nên thờ Mẫu ở Nam bộ được đánh giá là mang tính thoáng, mở tích hợp nhiều loại tín ngưỡng khác nhau. Tuy vậy thờ Mẫu ở Nam bộ vẫn có tính thống nhất chung với hình thức thờ tự của đạo Mẫu ở Bắc Bộ. Việc đề cao yếu tố Mẫu – Mẹ thông qua các nghi thức bài trí tượng trong chùa góp phần nói lên sự thể hiện qui luật thống nhất trong đa dạng văn hoá Việt Nam.

Bài viết tham khảo tư liệu từ các tác giả: Trần Lâm Biền, Nguyễn Du Chi, Đinh Gia Khánh, Vũ Ngọc Khánh, Đặng Văn Lung, Nguyễn Quân – Phan Cẩm Thượng, Ngô Đức Thịnh, Trần Ngọc Thêm. 

Bài viết liên quan

Phản hồi