Thầy Minh Niệm: Vượt qua cú sốc cha mẹ qua đời, đi và về với trái tim mở rộng

Thầy Minh Niệm là tác giả nổi tiếng của cuốn sách Hiểu về trái tim cách đây 15 năm. Thầy cũng được biết đến là giảng sư, diễn giả chia sẻ phương pháp thực tập giúp chữa lành, kiến tạo hạnh phúc, bình an trong cuộc sống thực tại – “bây giờ và ở đây”.

Mới đây, tại Đức Trọng, Lâm Đồng, PV VietNamNet có duyên trải nghiệm tu học 3 ngày ở nơi thầy đang an cư và hướng dẫn thiền, làm các dự án có lợi cho nhân sinh.

Quãng thời gian tuy ngắn ngủi nhưng chúng tôi đã có những trải nghiệm quý giá. Lấy lại cho mình cảm giác bình yên và nhận ra rằng, khi ở trong tình huống khó khăn, nếu biết trở về với hơi thở, bước chân chánh niệm, mỉm cười thì bản thân có thể thay đổi được tình trạng.

Một ngày mới ở nơi tu học của thầy Minh Niệm và hơn 100 học viên khóa đào tạo Chuyên gia thiền chữa lành bắt đầu từ lúc 4h và kết thúc lúc 21h30.

Lịch thực hành mỗi ngày có sự khác nhau. Có thể là nghe pháp thoại, thiền leo núi, thiền toạ, thiền buông thư, hát thiền ca, làm vườn, nấu ăn hoặc đơn giản là ngồi cùng nhau bên bếp lửa lúc 5h, cùng uống trà và lắng nghe câu chuyện của mỗi người.

Đôi khi, những chia sẻ không nhận được lời khuyên ngay nhưng sự có mặt, lắng nghe và đồng cảm của tất cả mọi người cũng đủ giúp họ vơi bớt nỗi khổ niềm đau.

Ba ngày ở đây, chúng tôi còn rất ấn tượng với tiếng chuông chánh niệm. Cứ mỗi 15 phút, tiếng chuông lại vang lên. Mọi người sẽ dừng tất cả công việc mình đang làm để lắng nghe và hít thở sâu, trở về với giây phút hiện tại.

Tiếng chuông ấy, ban đầu khiến chúng tôi có chút bối rối. Bởi đang ăn, đang nói, đang làm bỗng nhiên phải ngừng đột ngột giống như dòng chảy cuộc sống bị bấm nút tạm dừng. Nhưng khi đã quen thì đây là một phương pháp rất hay để đưa tâm trí về hiện tại, giải tỏa căng thẳng cho cơ thể và tinh thần của mình, lấy lại năng lượng tích cực.

Hết thời gian trải nghiệm tu học, chúng tôi có cơ hội được trò chuyện riêng với thầy Minh Niệm tại nơi thầy dạy thiền. Những chia sẻ xúc động của thầy khiến chúng tôi hiểu hơn về thầy, về con đường tu hành và những công việc có lợi cho nhân sinh mà thầy đang làm.

Trong cuộc trò chuyện, chúng tôi xin được gọi thầy, xưng con theo phép tắc thiền môn giữa một người thế tục với bậc xuất sĩ.

PV: Con thưa thầy, có người nói thầy là tu sĩ đặc biệt. Gọi thầy là thiền sư cũng đúng, nhà chữa lành tâm hồn cũng đúng…

Thầy Minh Niệm: (Cười) Thầy đi tu vốn không chỉ để trở thành một tu sĩ. Đi tu là cách để thầy tìm ra hạnh phúc và giúp đỡ mọi người. Cho nên ngoài là người dạy thiền, thầy thấy mình còn là người chữa lành tâm hồn, người làm giáo dục, người nâng đỡ tinh thần.

Với các em học viên ở đây, thầy là người anh, người bạn. Thầy còn là người nông dân trên cánh đồng, người phục vụ trong các trung tâm chữa lành trên thế giới… Tất cả những thứ đó làm ra thầy bây giờ. Bạn gọi thầy là gì cũng được. Tựu trung lại là thầy đang phát triển và chia sẻ những giá trị thuộc về tâm hồn. Vậy thôi.

Trong hơn 30 năm tu tập, có lúc nào thầy thấy chông chênh, muốn dừng lại?

– Đó là khi cha mẹ thầy mất đột ngột. Thầy vào chùa xuất gia năm 1992, khi 17 tuổi. 24 tuổi thì cha mẹ và một người em họ của thầy bị tai nạn điện giật, qua đời cùng lúc. Nỗi đau này ập đến lớn quá. Thầy bị suy sụp và thấy khổ quá. Thầy nhận ra, trong ngần ấy năm tu hành, kinh điển không giúp gì được thầy cả, không đi sâu được vào những tổn thương, không giải quyết được nỗi khổ niềm đau của mình.

Thậm chí lúc đó thầy còn rất hoài nghi, trách giận kinh điển. Tại sao mình đã trung thành, hết lòng, mình đã thấm kinh điển vào da thịt mà nó vẫn không có tác dụng gì hết. Trong kinh điển có những câu như “Sắc tức thị không”, “Bất sinh bất diệt” nhưng lúc đó thầy thấy cha mẹ mình có sinh diệt rõ rệt mà, sao nói là không có gì sinh, diệt được…

Thầy mất phương hướng sống. Cha mẹ mất, con đường mình đi là thất bại thì mình phải làm gì kế tiếp đây. Thầy đã nghĩ tới chuyện dừng lại con đường tu hành này, để bước ra. Thầy muốn trở về đi học ngành y, giúp các em mình. Nhưng chắc là cái duyên tu hành còn nên thầy cho mình cơ hội để suy nghĩ thêm.

Thầy rút lui về Bảo Lộc, Lâm Đồng và nằm ở đó 3-4 tháng. Sau này thầy mới biết mình bị trầm cảm nặng.

Điều gì đã giúp thầy hồi sinh?

– Thiên nhiên giúp thầy bừng tỉnh. Một buổi sáng sau nhiều ngày nằm bẹp, thầy nghe được tiếng chim hót, rộn ràng như một bản hòa ca. Thầy thấy cây cỏ, chim muông vẫn cần mẫn yêu và sống hết cuộc đời này thì mình cũng phải sống hết một kiếp người cho đàng hoàng, rực rỡ.

Thầy bắt đầu tập lại bài học cơ bản nhất của thiền nguyên thuỷ Vipassana, qua một cuốn sách mang theo. Trong 2 năm sau đó, thầy đã đi những bước chân chánh niệm, càng đi càng thấy lòng nhẹ nhõm.

Thầy phát hiện mình bước qua một khúc quanh mới của cuộc đời. Thấy mình sống trở lại… Thầy gác kinh điển cao siêu qua một bên, tiếp xúc với cái đời thường nhất và biết mình đang sống. Thầy nhận ra, trước giờ khổ mà mình cứ hướng ra bên ngoài, tìm cách giải quyết ở bên ngoài nên thất bại. Khi quay về bên trong, cảm nhận sự sống đi ngang qua, thầy thấy tất cả đều màu nhiệm.

Những đau khổ, tuyệt vọng của thầy có phải chỉ chấm dứt sau khi thầy gặp được Thiền sư Thích Nhất Hạnh (còn gọi là Sư Ông Làng Mai – PV)?

– Có lẽ là trời đất thương, sắp xếp cơ duyên nên năm 2001, thầy đến được Làng Mai, Pháp và ở đó gần 3 năm.

Quá trình ở Làng Mai, thầy được Sư Ông khai thị rất nhiều thứ. Những thắc mắc của thầy về kinh điển lúc này được giải đáp, cốt lõi của sự thực tập thiền được Sư Ông chỉ dạy. Mỗi ngày thầy có thể nuôi cha mẹ trong cơ thể của mình bằng năng lượng bình an thật sự. Thầy dùng rất nhiều thời gian để sống tĩnh lặng, yêu thương bản thân, yêu thương người xung quanh, chế tác năng lượng tích cực. Sự ngạo mạn cũng bị bào mòn. Có thể nói, Sư Ông Nhất Hạnh, tăng đoàn Làng Mai đã giúp thầy mời một con người khác trong mình bước ra.

Ở lâu với Sư Ông, thầy học được rất nhiều. Cho đến bây giờ, phương thức hành đạo, cách đem thiền vào đời sống của thầy chịu ảnh hưởng rất lớn từ Sư Ông. Nhưng có thể là mỗi thế hệ mỗi khác. Tới lúc thấy rằng pháp môn Làng Mai đối với mình như vậy là đủ, mình cần học hỏi thêm ở những vị thầy khác nên thầy lại ra đi.

Một con người khác trong mình bước ra, là như thế nào vậy thầy?

– Một con người không còn chứng tỏ gì hết. Ngày xưa, thầy được đất trời ban cho nhiều tài năng, sự thông minh nên thầy bị mắc kẹt vào những cái tật – sau này gọi là hội chứng rối loạn nhân sinh quan.

Trước đó thầy rất lý tưởng hoá đời sống, lý tưởng hoá con người. Muốn mọi thứ phải hoàn hảo. Ai có tính xấu, hay người lớn mà không trung thực, không đàng hoàng tử tế thầy sẽ khinh, phán xét, không muốn tiếp cận. Kể cả người thân trong gia đình. Lúc nào thầy cũng thấy có khoảng cách lớn đối với họ.

Sau này thầy mới biết, đó là sự ngạo mạn rất lớn. Mình chỉ tin vào chính mình. Sự tự tin này cũng có ưu điểm. Từ nhỏ thầy đã tự mình quyết định nhiều thứ. 12 tuổi thầy ăn chay. 17 tuổi thầy đi tu rồi.

Nhưng sự tự tin, tài năng cũng chính là chướng ngại cho việc quay vào bên trong. Cái gì thầy cũng muốn khám phá, đầu óc luôn tưởng tượng, sáng tạo không ngừng nên khi tu thiền là một thách thức lớn.

Thiền bắt buộc mình dừng lại mọi suy nghĩ. Chỉ an trú trong hiện tại. Chỉ cảm nhận. Cái tâm mình tưởng tượng nhiều quá, nhiều vết thương đau quá, khi về với hiện tại, được ngồi yên, được thở, thầy hạnh phúc rớt nước mắt.

Cuộc trùng phùng của thầy với thiền sư Sao Tejaniya, người Myanmar những năm tháng cuối đời của ngài ấy cũng khiến rất nhiều người tò mò. Thầy đã học hỏi được những gì?

– Sau khi rời Làng Mai, thầy gặp thiền sư Sao Tejaniya – lúc đó 84 tuổi, qua Mỹ chữa bệnh và trở thành đệ tử cuối cùng của ngài ấy.

Thiền sư dạy cho thầy phương pháp thiền nguyên thuỷ Vipassana trong hơn 3 tháng – dòng quan sát tâm. Dòng thiền này còn phát triển rất ít ở Myanmar, Sri Lanka.

Phần lớn con người đi theo bản năng sinh tồn, tự vệ. Tức là mình ăn, mặc, ngủ, tìm cách bảo vệ mình, tìm người thương yêu, người công nhận, nể phục mà quên rằng con người còn có nhu cầu được bình an, hạnh phúc, được tự do, hiểu biết, nhu cầu thấy thế giới này, bản thân mình là như thế nào nữa chứ không chỉ là những nhu cầu cơ bản kia.

Nhưng người ta đẩy nhu cầu cơ bản lên quá cao, khiến nó lung linh, rồi tưởng là cuộc đời chỉ có như vậy.

Thiền sư Sao Tejaniya dạy thầy cách quan sát tâm. Người hành thiền luyện cho lúc nào họ cũng biết cái gì đang xảy ra ở bên trong, sâu nhất là tâm họ đang phản ứng như thế nào.

Từ khởi điểm đó, thầy bắt đầu đi vào bên trong, luôn luôn quan sát chính mình từ cạn cho tới sâu. Khi mình thích, bực cái gì, mình cũng hỏi tại sao. Khi mình ưu tiên cho ai đó, mình cũng đặt câu hỏi… Riết rồi mình trở thành nhà khám phá của chính mình. Thực ra ai cũng có khả năng làm điều đó hết.

Kết quả của quá trình quan sát tâm (quán tâm) đó là gì, thưa thầy?

– Khi hiểu được chính mình, tự nhiên mình dễ chấp nhận bản thân ở những khuyết điểm, những yếu kém, những cơn phiền não, khổ đau. Mình không còn chê trách, lên án hay buộc tội nó nữa.

Bên trong mình ngoài tài năng, sự thông minh còn có độ vững chãi, có lòng bình an, lòng từ ái, một cái tâm tự do… Có nhiều chất liệu quý giá để làm nên chất thánh thiện của con người. Nó cần mình quay về, như một người làm vườn, chăm sóc khai quật lên, chứ không phải ai khác.

Và mình sẽ sung sướng vô cùng khi thấy mỗi ngày mình rộng lớn ra. Tự nhiên mình thấy so với ngày xưa, nhân vật, câu chuyện, vấn đề đó nay đã khác rồi, theo khuynh hướng tích cực hơn. Mình rất dễ chấp nhận, thấy chuyện đó không là gì cả. Khi mình rộng lớn, khả năng chấp nhận người khác cũng lớn theo.

Và thầy bắt đầu cảm được rằng, con người tạm chia thành 2 nhóm. Một nhóm có luyện tập chất lượng và nhóm chưa luyện tập mà thôi.

Sự khác biệt giữa hai nhóm đó là gì, thưa thầy?

– Nhóm chưa luyện tập thì thấy thế giới này có tính tương đối, có đẹp có xấu, có cao với thấp, hay với dở, có địa vị trên, dưới, có đúng, sai. Nhưng khi con người có luyện tập và trưởng thành trong đời sống, khoảng cách đó sẽ xích gần lại. Cái đúng có khi không còn đúng nữa, cái sai có khi cũng không còn sai nữa.

Những vị trí trong xã hội có lúc mình thèm thuồng, có lúc thì chẳng là gì cả. Ở chỗ này thì nó có giá trị, qua tới không gian khác thì thấy không là gì.

Giống như tụi thầy đi phượt ở trên núi, nhiều ngày không ai được tắm rửa, có ai chê ai hôi đâu. Sạch với dơ không còn đúng nữa.Thức ăn ngon với dở cũng không còn đúng nữa, chỉ có no và đói. Vì trên đó không có gì ăn cả. Đôi khi chỉ hái được mớ nấm thôi mà chia nhau ăn lấy ăn để. Ở nhóm đó có luật sư, bác sĩ, có kĩ sư, có kiến trúc sư, có nghệ sĩ, có tu sĩ nhưng mọi người là như nhau, là huynh đệ thôi.

Tất cả những cái đó là sự định hình, định kiến của xã hội, mang tính tương đối. Nó đúng ở chỗ này nhưng không đúng chỗ khác, đúng thời này nhưng không đúng thời khác. Chúng ta luôn là nạn nhân của sự đặt để đó. Chúng ta sống trong thế giới tương đối.

Nhưng bạn có thể hoàn toàn bước ra khỏi đó. Tức là, không có gì gọi là đúng sai đâu, không có gì gọi là cao thấp đâu, không có gì gọi là hay dở, vinh nhục đâu. Những người trải nghiệm nhiều năm trong cuộc đời, thấy việc thành bại, thăng trầm là bình thường.

Một người thành công ở thương trường nhưng có thể thất bại trong gia đình, trong các mối liên hệ tình cảm. Một người thất tình nhưng có thể còn có nhiều người bạn thân xung quanh, còn nhiều công việc có giá trị. Thành ra người sống nhiều năm trong đời có cái nhìn rộng hơn. Mà người tu luyện sẽ luôn luôn có cái thấy đó. Họ thường trực, quay về với cái thấy đó. Người không tu luyện sẽ luôn mắc kẹt trong những hiện tượng thất bại, thất tình, bỏ đi…

Thầy có thời gian ở Mỹ và “tu bụi” hơn 3 năm, với những trải nghiệm thật sự gây thích thú, tò mò và cả sợ hãi. Tại sao thầy chọn đi về miền hoang dã, không mang theo tiền, điện thoại…

– Thầy chọn tu bụi, lý do phụ là để né sự nổi tiếng sau khi ra cuốn Hiểu về trái tim. Lý do chính là thầy muốn bước ra khỏi vai thầy tu. Thầy muốn đi tìm một phần khác trong con người của mình. Không có gì khác hơn ngoài việc quăng mình vào điều kiện khắc nghiệt nhất có thể. Đã có lúc thầy nghĩ đi sẽ không bao giờ trở về. Mình có thể chết trong chuyến đi đó, vì nó rất nguy hiểm.

Chuyến đi đó thầy mang y cà sa trong balo, có dùng một vài lần trong một vài điều kiện cần thiết, còn lại là mặc đồ của người đi phượt.

Thầy trèo non lội suối, làm tình nguyện viên ở các nông trường, trại dưỡng lão, đặc biệt là ở các trung tâm chữa lành tâm lý. Làm một người bình thường, người phục vụ, không nổi tiếng.

Thầy đi cuốc đất, chăn cừu, tắm cho người già, ở chung với người vô gia cư, nấu ăn, cưa cây, xây nhà… Những thứ mà ít bao giờ thầy làm, để quăng cái tôi của mình ra. Thầy muốn học cách sinh tồn, muốn xem trong mình còn chất liệu gì nữa. Và thầy thấy mình rộng lớn hơn rất nhiều.

Điều lớn nhất thầy đạt được sau chuyến tu bụi đó là gì?

– Đó là sự không sợ hãi – gọi là giác ngộ thì lớn lao quá, thầy gọi là thực chứng. Kể cả cái chết, nếu thấy đúng và cần, thầy có thể đi tới được.

Sự không sợ hãi này cũng phải đến từ sự hiểu biết. Khi mình nắm được quy luật vận hành của trời đất, biết rằng mọi thứ rồi sẽ thay đổi thì mình chờ sự thay đổi đó.

Hành trình tu bụi còn cho thầy một khả năng nữa. Nó khiến thầy mất đi rất nhiều sự kì thị, giữa con người với nhau. Ngày xưa ít nhiều thầy còn sự phân biệt. Giờ thầy có thể ôm được mọi đối tượng. Không có người tốt, người xấu, người lầm lỡ… Tất cả mình đều có thể đón nhận được.

Sau hành trình tu bụi là thầy thấy sống hết kiếp người rồi, thấy đã rồi. Những gì cần có trong cuộc đời thầy cũng có đủ hết. Cái còn lại chưa làm được là giúp đời giúp người nhiều nhất có thể thôi.

Đó là lý do thầy trở về Việt Nam chứ không chọn hoằng pháp ở nước ngoài?

– Đúng vậy. Vì trái tim thầy đặt ở Việt Nam. Thầy ra nước ngoài để học, để luyện rồi trở về Việt Nam thôi. Thầy luôn luôn yêu Việt Nam. Nói thì hơi sến nhưng tất cả thơ, văn của thầy luôn nói lên tình yêu thương của mình với cộng đồng, xã hội, làng xóm; luôn khích lệ người trẻ yêu quê hương đất nước của mình. Chắc trời sinh mình ra thế thôi chứ cũng không có gì là lớn lao hết (cười).

Nội dung: Vũ Lụa – Misu Phạm/vietnamnet.vn

Thiết kế: Phạm Luyện

Bài viết liên quan

Phản hồi