Phật sự Quốc Tế: HT.TS Thích Đức Tuấn, TT.TS Thích Thanh Đoàn báo cáo tham luận tại Hội thảo Quốc Tế với chủ đề “Tầm quan trọng trong việc dạy tiếng Việt cho giới trẻ người Việt Nam đang sống ở các nước trên thế giới”

Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, cộng đồng người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài (Việt kiều), ngày càng đông và có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn và phát triển giá trị văn hóa dân tộc. Trong đó, việc duy trì và phát triển tiếng Việt cho thế hệ trẻ là một nhiệm vụ vô cùng cấp thiết và quan trọng, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa, thúc đẩy giao lưu, hợp tác Quốc tế và phát huy truyền thống dân tộc. Từ ngày 31/5/2025 – 1/6/2025 (nhằm ngày 5-6/5/ Ất Tỵ), HT.TS Thích Đức Tuấn – Phó Trưởng ban Phật giáo Quốc tế TƯ GHPGVN, TT.TS Thích Thanh Đoàn, UV Ban Hoằng Pháp TƯ GHPGVN, đại diện Ban Quốc tế Trung Tâm Phật học ứng dụng đã tham gia Hội thảo Quốc tế với chủ đề “Tầm quan trọng của việc giảng dạy, gìn giữ ngôn ngữ và văn hóa Việt cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài”, tại trụ sở Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Fukuoka, Nhật Bản; Tổng Lãnh sự quán phối hợp Hội người Việt Nam tại Fukuoka (AVF). Hội thảo thu hút khoảng 1.000 người theo dõi, gần 50 đại biểu tham dự trực tiếp tại Fukuoka, Nhật Bản, hơn 100 lãnh đạo, học giả đến từ 20 quốc gia và vùng lãnh thổ, gần 800 người theo dõi qua các nền tảng trực tuyến. Vinh dự có đại diện của khoa Ngôn ngữ học, khoa Phương Đông học đến từ gần 20 trường Đại học tại Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản.
Nội dung bàn về các vấn đề chính, liên quan đến nhiều mối liên hệ giữa kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, giáo dục, tôn giáo,… mà Phật giáo thời hiện đại và Liên hợp Quốc cũng như bộ ngoại giao giữa Việt Nam và các nước quan tâm. Thứ nhất, tham luận nhấn mạnh tầm quan trọng của việc dạy tiếng Việt cho giới trẻ Việt kiều – Bảo tồn văn hóa dân tộc; thứ hai, chỉ ra những thách thức trong việc dạy tiếng Việt cho giới trẻ Việt kiều; thứ ba, đề xuất một số ghi nhận thực tiễn từ thực tế tại Nhật Bản và Hoa Kỳ, cùng so sánh với một số nước khác; thứ tư, đưa ra các kiến nghị và giải pháp.
Ở phần thứ nhất, hai tác giả đưa ra khẳng định Tiếng Việt là phần cốt lõi của bản sắc văn hóa Việt Nam. Khi thế hệ trẻ có thể nói, viết, hiểu tiếng Việt, họ sẽ dễ dàng tiếp cận, hiểu rõ hơn về lịch sử, truyền thống, phong tục tập quán của tổ tiên, từ đó gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trong cộng đồng Quốc tế. Trong đó có giới Phật tử. Việc dạy tiếng Việt cho giới trẻ Việt kiều còn có ý nghĩa gắn kết cộng đồng; vì ngôn ngữ là cầu nối giữa các thành viên người Việt trong nước và ở nước ngoài; giúp giới trẻ duy trì mối liên hệ với gia đình, quê hương và truyền thống yêu nước, tự hào dân tộc; đồng thời, phát triển cá nhân và nghề nghiệp. Bởi trong môi trường Quốc tế, khả năng sử dụng thành thạo tiếng Việt cùng với các ngôn ngữ khác là lợi thế lớn trong học tập, công việc và giao lưu. Điều này giúp giới trẻ mở rộng cơ hội phát triển bản thân và hòa nhập cộng đồng Quốc tế.
Tuy nhiên, tham luận cũng sâu sắc đề ra thách thức trong việc dạy tiếng Việt cho giới trẻ Việt kiều là “ảnh hưởng của môi trường nước ngoài”. Do trẻ em sinh ra và lớn lên ở nước ngoài thường chịu ảnh hưởng bởi ngôn ngữ và văn hóa của quốc gia sở tại, dẫn đến khả năng sử dụng tiếng Việt bị hạn chế hoặc mai một; hiện tượng đang dần xa rời ngôn ngữ mẹ đẻ dễ dẫn đến tình trạng mai một tiếng Việt và xa rời văn hóa gốc. Nguyên nhân bởi thiếu các phương pháp giảng dạy phù hợp (như thiếu các chương trình đào tạo phù hợp, hoặc chưa có giáo viên được đào tạo bài bản về phương pháp giảng dạy tiếng Việt cho người Việt ở nước ngoài). Các thế hệ con cháu phần lớn không biết tiếng Việt nên thế hệ cha ông họ rất khó trong việc giao tiếp, giúp đỡ. Cho nên, một trong những yếu tố then chốt để bảo tồn văn hóa dân tộc trong cộng đồng Việt kiều chính là ngôn ngữ – tiếng Việt. Đây là nhiệm vụ thiết yếu và cấp bách, để giữ gìn bản sắc và tăng cường sức mạnh văn hóa dân tộc trên trường Quốc tế mà tham luận đóng góp.
Theo khảo sát và phỏng vấn của HT.TS Thích Đức Tuấn chỉ đạo Tăng Ni Cư sĩ Phật tử trong Ban hoằng Pháp Quốc tế, ghi nhận thực tiễn từ Nhật Bản và Hoa Kỳ: Nhiều gia đình Việt định cư từ trước và sau năm 1975, nay đã có đến ba thế hệ. Thế hệ ông bà hiện đã lớn tuổi, trong khi phần lớn con cháu sinh ra tại nước ngoài lại không còn sử dụng tiếng Việt thường xuyên, thậm chí không hiểu ngôn ngữ mẹ đẻ. Hệ quả là sự đứt gãy trong truyền thông gia đình, rào cản trong việc chăm sóc, thấu hiểu và truyền dạy đạo lý – văn hóa dân tộc. Điều này cũng tạo ra khoảng cách và khó khăn trong việc kết nối cộng đồng, duy trì sinh hoạt văn hóa – tâm linh truyền thống như lễ Tết, giỗ tổ, Phật đản, Vu lan… vì thiếu người trẻ hiểu và tham gia.
Sau khi nhấn mạnh vai trò, chỉ rõ nguyên nhân, các thách thức, thực trạng, tham luận kiến nghị và đưa ra giải pháp để “Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc”, hưng thịnh cùng Phật giáo Quốc tế bằng cách: (1) tăng cường mở lớp tiếng Việt tại các chùa, trung tâm cộng đồng và trường học (có thể là định kỳ, hoặc kết hợp dạy văn hóa, lễ nghi, đạo đức truyền thống); (2) đầu tư biên soạn giáo trình phù hợp cho từng lứa tuổi; (3) khuyến khích phụ huynh sử dụng tiếng Việt trong gia đình. Cha mẹ cần chủ động nói tiếng Việt với con em từ nhỏ, khuyến khích đọc sách, xem phim, nghe nhạc tiếng Việt để tạo môi trường tiếp xúc thường xuyên và tự nhiên; (4) phối hợp giữa Nhà nước và cộng đồng Việt ở nước ngoài; đề xuất phía Việt Nam cử giáo viên, cấp học bổng, tài liệu giảng dạy, tổ chức các trại hè về nguồn, giao lưu văn hóa – giúp giới trẻ Việt Kiều kết nối với quê hương.
Có thể nói, việc giữ gìn và phát triển tiếng Việt cho thế hệ trẻ người Việt ở nước ngoài là trách nhiệm chung của cộng đồng, nhà nước và mỗi gia đình Việt kiều. Làm được điều này chính là góp phần xây dựng một cộng đồng người Việt vững mạnh, mang bản sắc riêng, có tri thức, tri ân và có lòng hướng về cội nguồn. Trong thời đại hội nhập, khả năng song ngữ sẽ là một lợi thế lớn; giúp giới trẻ mở rộng cơ hội học tập, làm việc trong các tổ chức đa quốc gia, giúp xây dựng cầu nối giữa Việt Nam và các nước sở tại trong lĩnh vực văn hóa, kinh tế, giáo dục và ngoại giao nhân dân. Tham luận Quốc tế vì vậy có ý nghĩa đóng góp đưa ra dự án và triển khai để kết nối Phật giáo trong nước với kiều bào nước ngoài cùng hoằng Pháp Quốc tế và chung tay phát triển thế giới tiến bộ, bền vững, hòa bình, phát triển, an lạc.

TN . Viên Giác 

Bài viết liên quan

Phản hồi