Những phương pháp tạo dựng cuộc đời
Chúng ta khi tu hành, ai cũng đều muốn nỗ lực cho bản thân mình được lợi ích, đó gọi là tự lợi và đem san sẻ giúp đỡ cho người khác gọi là lợi tha. Tự lợi và lợi tha là con đường tu hành của Phật Thích Ca Mâu Ni và các vị Bồ tát.
Định nghĩa Tứ nhiếp pháp là gì?
Tứ là 4; nhiếp là thu phục; pháp là phương pháp. Lợi tha là làm lợi ích cho người khác. Tứ nhiếp pháp là 4 phương pháp lợi tha để giúp tất cả chúng sinh biết quay về với Phật pháp chân chính mà sống an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
Tứ nhiếp pháp gồm những phương pháp nào?
Tứ nhiếp pháp là bốn phương tiện để nhiếp phục, cảm hóa tâm lý của người đời. Khi đã cảm hóa được họ, lần hồi từng bước hướng dẫn họ phát khởi niềm tin, mở mang trí tuệ và thâm nhập Phật pháp. Các phương tiện này là: Bố thí nhiếp, Ái ngữ nhiếp, Lợi hành nhiếp và Đồng sự nhiếp.
Bố thí nhiếp là gì?
Bố thí nhiếp là đem những gì mình có bằng vật chất lẫn tinh thần để cứu giúp người khác khi cần thiết, nhằm tạo sự thiện cảm để họ tâm phục, khẩu phục và mến mộ mà biết quay về với Phật pháp chân chính.
Vậy bố thí có mấy phần? Hãy kể ra?
Bố thí có 3 phần: Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí.
Tài thí: (tài là tiền tài của cải, vật chất) thí là tặng cho biếu giúp đỡ là đem tiền của, vật chất mà san sẻ, để cứu giúp người đang trong cơn hoạn nạn, thiếu thốn khó khăn.
Pháp thí: (Pháp là những lời dạy của đức Phật được ghi chép lại trong tam tạng kinh điển với hơn 30 ngàn bài kinh từ thấp đến cao, từ đạo lý làm người cho đến bậc hiền Thánh). Pháp thí gồm có 2 phần: 1 là cho người xuất gia tu hạnh giải thoát hoàn toàn và cứu độ chúng sinh; 2 là cho người tại gia tu giác ngộ từng phần giảm bớt phiền não khổ đau hoặc đem những phương pháp làm ăn, nghề nghiệp chân chính dạy cho người khác, giúp họ biết sinh sống mà không làm tổn hại đến người và vật.
Vô úy thí: (vô úy là không sợ hãi) là chia sẻ cách thức để mọi người biết cách sống không lo lắng, sợ hãi do tham lam ích kỷ, ngu dốt gây ra nhằm đem đến bình yên hạnh phúc giúp họ an trú trong giờ phút hiện tại. Chúng ta từ lúc sinh ra cho đến khi khôn lớn trưởng thành có khi sợ bóng tối, sợ cô đơn, sợ đau ốm tai nạn, sợ hoàn cảnh khó khăn, sợ mất mát đau thương, thậm chí sợ những điều vớ vẫn vu vơ do tâm lý không vững vàng. Bồ tát hiểu rõ điều này, nên các Ngài thường bố thí không sợ hãi để giáo hóa chúng sinh sống an ổn do biết cách làm chủ bản thân.
Trong tài thí có mấy phần?
Tài thí gồm có nội tại và ngoại tài:
Nội tài thí: Dùng cả thân mạng hoặc một vài bộ phận trong cơ thể để bố thí. Đây là hạnh động buông xả lớn của các Bồ-tát. Hiện nay, có phong trào hiến máu nhân đạo, hiến tặng các chi phần trong cơ thể hoặc hiến xác cho khoa học, đều thuộc về lọai này.
Ngoại tài thí: Dùng tài sản của mình kiếm được một cách lương thiện, đem san sẻ cho những người nghèo khổ thiếu thốn, khó khăn nhằm làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh.
Ái ngữ nhiếp là gì?
Ái ngữ nhiếp là khéo léo dùng lời nói hòa nhã, an ủi, khuyên lơn nói đúng sự thật, làm cho mọi người nâng cao trình độ hiểu biết mà mến phục, để rồi từ đó họ mới theo ta cùng nhau học hỏi và tu sửa.
Trong mối quan hệ thân thiện chúng ta cần sử dụng ngôn ngữ khi giao tiếp hoặc muốn bày tỏ ý kiến, tình cảm với mọi người chung quanh. Chính vì vậy, người Phật tử chân chính khi nói ra điều gì, phải mang tính cảm thông và xây dựng. Một số người có quyền hành thường dùng áp lực để bắt mọi người phải làm theo, nếu làm khác đi thì họ tìm cách trù dập làm tỗn thương cho nhân loại. Dĩ nhiên, quyền lực cũng cần thiết nhưng phải dùng đúng lúc, đúng chỗ, đúng nơi để duy trì an sinh sự sống. Thế cho nên sử dụng ái ngữ đối với con cái hay mọi người chung quanh là một nghệ thuật sống phù hợp với đạo lý làm người là điều cần thiết.
Lợi hành nhiếp là gì?
Lợi hành nhiếp là làm lợi ích cho người bằng ý nghĩ, lời nói và hành động dấn thân phục vụ, khiến người sinh lòng cảm mến mà theo ta học hạnh từ bi hỷ xả vói tinh thần tốt đạo đẹp đời. Thí dụ như: đắp đường, bắc cầu, nấu cơm từ thiện cho các bệnh nhân nghèo, xây nhà tình thương, nhà dưỡng lão và trại mồ côi…
Đồng sự nhiếp là gì?
Đồng sự nhiếp là tạo điều kiện cùng làm chung một công việc, để tạo phương tiện sống gần gũi với mọi người nhằm giúp đỡ họ làm tốt công việc ấy, sau đó dẫn dắt họ đến với Phật pháp. Cuộc sống hòa mình, cùng chung buồn, vui, sướng, khổ với người là một nghệ thuật sống. Nhưng muốn hòa đồng như thế, chúng ta phải có lối sống có phong cách, có ngôn ngữ gần giống người mà mình muốn nhiếp phục.
Trong tứ nhiếp pháp, đồng sự nhiếp là phương pháp hiệu quả nhất vì chúng ta thường xuyên gặp gỡ họ mỗi ngày, cùng đồng hành, cùng làm việc, cùng gánh vác, cùng sẻ chia nên ta có thể hiểu được tâm tư nguyện vọng ước muốn của họ để ta giúp đỡ một cách thiết thực hơn. Và mỗi ngày ta đều nêu tấm gương tốt của người Phật tử tại gia cho họ nhìn thấy, quay đầu là bờ và ai cũng có thể làm được nếu quyết tâm cao độ.
Tứ nhiếp pháp có những lợi ích gì khi ta áp dụng thực hành?
– Về phương diện cá nhân: Ta sẽ gieo được những hạt giống thiện lành tốt đẹp cho mình trong hiện tại và mai sau.
– Về phương diện gia đình: Mọi người cùng sống vui vẻ thuận thảo với nhau để làm tròn bổn phận và trách nhiệm.
– Về phương diện xã hội: Ta sẽ gây được tiếng vang tốt đẹp nhờ sống đạo đức và phụng sự xã hội mà góp phần làm giảm bớt tệ nạn xã hội. Số người tu tập bốn phương pháp vào đời thì xã hội sẽ ổn định, kế thừa và phát triển với tinh thần “tốt đời đẹp đạo” mà hai triều đại Lý – Trần sáng lập.
Nói tóm lại, 4 nhiếp pháp là pháp môn hiện thực đi vào đời nhằm nhiếp hóa, cảm phục được lòng người một cách có lợi ích thiết thực mà vẫn giữ được triết lý sống của đạo Phật. Đây là hạnh phước huệ song tu của các vị Bồ tát, muốn hiến dâng cuộc đời mình cho lợi ích chung với tinh thần tốt đạo đẹp đời.
Phản hồi