Hoằng pháp đối với tuổi trẻ – một vài suy nghĩ
Khi trình bày những giáo lý như thế cho giới trẻ, chúng ta có thể sử dụng những phương tiện về tri thức khoa học để giải thích nhằm tạo ra niềm tin đúng đắn phù hợp với tri thức thời đại, nhưng cũng chú ý để đừng quá sa đà diễn giải mà thành ra chỉ tôn thêm vẻ hào nhoáng của khoa học kỹ thuật…
Người đặt vấn đề đó đang có một ưu tư về vấn đề làm thế nào để giáo lý đức Phật thực sự có ảnh hưởng đến nhận thức của giới trí thức, những người trẻ tuổi hôm nay. Bởi không ai không biết rằng chính tuổi trẻ là tương lai của một dân tộc nói riêng và của toàn thế giới nói chung. Họ là những người đang và sẽ gánh vác vận mệnh của đất nước, của thế giới trong hiện tại và tương lai.
Chúng ta biết rằng nhận thức của con người đã trở nên tiến bộ và khác hơn ngày xưa rất nhiều nhờ sự tiến bộ về tư tưởng, khoa học, triết học và xã hội học. Trong sự tiến bộ chung ấy nhận thức về tôn giáo của con người cũng thay đổi theo chiều hướng tiến bộ. Mà tôn giáo là cần thiết cho con người. Vì vậy chúng ta phải có bổn phận thúc đẩy sự tiến bộ của con người về nhận thức tôn giáo, khiến cho tôn giáo luôn giữ được vai trò nuôi dưỡng và phát triển tâm linh của con người và đừng bao giờ trở nên những chướng ngại, những thành kiến cố chấp và cuồng tín, cản trở sự tiến bộ và giải phóng con người toàn diện.
Tuy nhiên cho dù nhận thức của con người về tôn giáo có thay đổi thế nào đi nữa, những nguyên lý của Phật học cũng không bao giờ thay đổi. Chúng ta quyết chắc như vậy, vì những nguyên lý ấy cũng chính là những nguyên lý thường hằng của vũ trụ vạn hữu. Pháp ấy dù đức Phật có nói hay không nói nó vẫn luôn có đó. Đức Phật nói ra là bởi sự giác ngộ của Ngài và vì lòng thương xót chúng sanh nên nói ra để thay đổi những nhận thức sai lầm của chúng sanh. Chính những sự sai lầm trong nhận thức về cuộc đời đã làm cho chúng ta đau khổ.
Đức tin là nền tảng của mọi sự thành công trong đời. Mất niềm tin có nghĩa là mất đi cả ý nghĩa sống. Sống có nghĩa là tin vào một cái gì đó để phấn đấu và tiếp tục sống. Sống chứ không phải chỉ là tồn tại. Nhưng niềm tin ấy sẽ hướng dẫn con người ta sống như thế nào, vô nghĩa hay đầy ý nghĩa, lương thiện hướng thượng hay tàn ác và xuống dốc. Hoằng pháp với tuổi trẻ phải hướng dẫn cho họ một lối sống có niềm tin và hướng thượng. Giúp cho họ thấy được tính nhân bản và tự chủ của chính họ mà không phải do ai áp đặt hay bắt buộc. Mọi thứ đều để cho họ tự nhận thức và quyết định lấy.
Chẳng hạn khi nói về Vô thường và sự thật về khổ của cuộc đời, ngày xưa đã có nhiều nhầm lẫn ở điểm này và cho rằng đạo Phật là bi quan, yếm thế. “Đời là vô thường nên tôi chẳng muốn làm gì hết, làm có đó rồi cũng mất đi thôi thì làm để làm gì”; khi nói đời là bể khổ mênh mông không bờ bến, thì người ta mất luôn niềm tin yêu đối với cuộc sống. Thành kiến này vẫn còn lưu dấu khá đậm vào thời đại chúng ta. Những tác phẩm văn học cũng đã tiếp tay cho nhận thức này của con người về Phật giáo (hẳn chúng ta cũng sẽ vận dụng lĩnh vực văn học để sửa lại nhận thức sai lầm này, té ở đâu thì chống ở đó để đứng dậy). Người ta đâu để ý một khía cạnh thực tế và rất khoa học của tính chất Vô thường. Không có vô thường thì thực sự không thể quan niệm thế nào là sự sống
Khi trình bày những giáo lý như thế cho giới trẻ, chúng ta có thể sử dụng những phương tiện về tri thức khoa học để giải thích nhằm tạo ra niềm tin đúng đắn phù hợp với tri thức thời đại, nhưng cũng chú ý để đừng quá sa đà diễn giải mà thành ra chỉ tôn thêm vẻ hào nhoáng của khoa học kỹ thuật. Khoa học kỹ thuật luôn có sự hạn chế nhất định của nó, nó chỉ là tương đối. Trong sự trình bày đó, luôn phải để ý đến khía cạnh thực tế của đời sống. Mục đích của đạo Phật là nhằm giải thoát chứ chẳng phải là trói buộc con người vào những hý luận vô bổ.
Bây giờ, chúng ta nói đến khía cạnh khổ đau của Phật giáo. Đạo Phật nói về khổ đau như một chân lý hiển nhiên của cuộc đời. Bài thuyết pháp đầu tiên đức Phật nói ngay đến vấn đề khổ đau. Đó là một sự thực nên chúng ta không thể không nói đến. Nó đúng cho tất cả mọi thời. Không phải chỉ đúng với ngày xưa, còn hôm nay xã hội phát triển nên nó không còn đúng nữa. Nếu mở mắt ra chúng ta có thể thấy xã hội ngày nay cũng đầy dẫy những khổ đau và thậm chí còn nặng nề hơn nữa là khác. Nhưng chúng ta phải nói cách nào để đánh thức dậy ý thức của giới trẻ về khổ đau. Đó là bổn phận của người hoằng pháp. Người trẻ ngày nay sự thực đang ngủ mê và đi theo tiếng gọi của sự phát triển và hào nhoáng của khoa học kỹ thuật. Họ cần có một sự trợ giúp.
Theo tôi, ý thức về khổ đau là vấn đề quan trọng, từ đó có thể bàn đến những vấn đề khác thuộc về cá nhân và xã hội. Phải thấy được bệnh trạng, thấy được sự nguy hiểm của những nguyên do khổ đau thì mới có ý thức giải thoát khổ đau một cách hữu hiệu, chứ không phải là sự chạy trốn trong cơn mê ngủ. Ý thức về khổ đau và hạnh phúc của chính mình cũng là nền tảng để nói đến việc bảo vệ hạnh phúc của kẻ khác đồng thời giúp người bớt khổ.
Chúng ta quằn quại trong đau khổ, hốt hoảng như ở trong ngôi nhà đang cháy, chịu đựng nhiều sự bức bách và não loạn không phút ngơi nghỉ. Đạo Phật không chịu đi vào huyền đàm, lý luận những vấn đề siêu thực mà luôn ý thức quay trở lại nhận diện và giải quyết những vấn đề thực tiễn trước mắt đang làm cho con người điêu đứng. Mũi tên độc phải được nhổ ra để băng bít và chữa lành vết thương chứ không ngồi đó truy tìm những nguyên nhân, những động cơ của kẻ bắn mũi tên. Phải nhận diện cho được cái khổ đau của mình và của nhân loại.
Ý thức về khổ đau luôn gây cho chúng ta có một xót xa trong nội tâm. Đây cũng là một điều cần thiết để nói đến các vấn đề luân lý đạo đức của con người. Bao giờ anh không còn thấy xót xa trước nỗi đau của mình cũng như của người khác, bấy giờ luân lý đạo đức không còn được đặt ra nữa và như vậy cuộc sống loài người sẽ như thế nào?. “Nếu chúng ta có thể tăng cường khả năng sự nhạy cảm trước nỗi đau của người khác, thì càng nâng cao, ta lại càng ít chịu đựng được khi nhìn thấy nỗi đau của người khác và càng chú trọng bảo đảm mọi hành động không tác hại con người” (đức Đạt-lai-la-ma, Đạo Lý Thiên Niên Kỷ).
Năm giới của người Phật tử được xây dựng trên ý thức về khổ đau của đời người. Ngày xưa, có lẽ vì để cho dễ nhớ, và vì sự hạn chế về phương tiện chuyển tải văn bản mà năm giới chỉ được trình bày ngắn gọn bắt đầu với chữ “không” (không sát sanh, không nói láo, không trộm cắp, không tà dâm, không uống rượu). Nói như thế có thể người ta nghĩ rằng đó là những bắt buộc, áp đặt đối với tín đồ. Chúng ta có thể trình bày khác đi một chút về hình thức với sự tham gia của nhận thức của người nghe, người đọc chứ không thuần túy là những điều cấm kỵ.
Ý thức có nghĩa là thức tỉnh, mở con mắt ra để nhìn thực trạng của gia đình và xã hội. Năm giới có thể là bài học suốt đời nhằm nuôi dưỡng và phát triển hạnh phúc của xã hội và gia đình. Cũng đề tài cũ kỹ ấy nhưng cách trình bày phải mới để thích nghi với nhận thức của mọi người, đặc biệt là giới trẻ. Trình bày giáo lý về duyên sinh, vô ngã, vô thường trong thời đại này là cần thiết để người ta có thể hiểu được mối liên hệ giữa mình với thế giới chung quanh. Vạn vật đều sống trong mối tương quan tùy thuộc vào nhau. Không có một ai, một sự vật gì tồn tại độc lập. Hạnh phúc, khổ đau, tình yêu, lý tưởng đều nằm trong mối tương quan nhân duyên ấy.
Nói với người trẻ phải nói tới lý tưởng, tình yêu, sự nghiệp. Tất cả những điều này đều phải nói trong những mối liên hệ, đúng như bản chất của nó; và chúng ta có thể hướng dẫn cho người trẻ trong chiều hướng tích cực. Người trẻ thường sống và chăm lo cho tương lai. Họ luôn có một mục đích để vươn tới trong tương lai, họ đặt hoàn toàn niềm tin ở tương lai. Điều này cho họ có một sức phấn đấu mạnh mẽ. Tuy nhiên tương lai luôn phải được đặt nền tảng ở hiện tại, phải có gốc rễ trong đời sống hiện tại. Tất cả chỉ được thực hiện ở đây và bây giờ.
Thiền tập trong đời sống hàng ngày có thể giúp cho người trẻ biết dừng lại và ý thức đời sống của chính mình. Thiền tập không chỉ đem lại cho con người những bình an, làm thư giản trong nhịp điệu căng thẳng của đời thường, nó còn hướng dẫn con người sống một đời sống hướng thượng. Sự dừng lại và thực tập lắng sâu để có thể nhìn sâu hơn trong những mối tương quan, chia sẻ những niềm vui trong đời sống thực tập, áp dụng những phương pháp tháo gỡ những khó khăn trong đời sống gia đình.
Người trẻ cũng có nhiều hạng người có những quan niệm khác nhau. Họ vẫn có những vấn đề tôn giáo cổ sơ và thậm chí có những mê tín. Họ tin Phật như là vị thần ban phước giáng hoạ và đến chùa chỉ để lễ lạy cầu xin. Chúng ta không thể nói một cách giống nhau trong mọi trường hợp. Có thể dùng phương tiện đáp ứng những vấn đề tôn giáo của họ rồi dần dà hướng dẫn cho họ đức tin chánh tín. Chỉ có niềm tin chân chánh trong Phật pháp mới có thể giúp họ được trong đời sống và mới giữ được niềm tin của họ đối với Phật pháp. Khuyến khích người trẻ đọc và học những sách vở về Phật học nhằm phát triển trí tuệ và bồi dưỡng cho đời sống tâm linh.
Còn một điều nữa có thể ảnh hưởng khá mạnh mẽ đối với giới trẻ đó là văn hoá nghệ thuật. “Văn dĩ tải đạo”, những tác phẩm văn học, những áng thơ, những khúc nhạc… đều có thể làm cho người trẻ có nhiều cảm tình chân thành với đạo pháp. Trong các bài giảng có nhiều tính chất văn học, có thể có nhiều thu hút người nghe hơn những bài chỉ nói những giáo lý khô khan. Có thể lấy những áng thơ văn của người đời để làm giàu thêm cho bài giảng. Thậm chí chúng ta cũng dùng đến những khúc nhạc có thể chuyển tải được giáo lý và hát lên khi cần thay đổi không khí. Khi họ thích những áng thơ văn đó, cùng với sự dẫn dắt khéo léo của người thuyết giảng, chúng ta có thể đưa họ thâm nhập giáo lý một cách dễ dàng. Họ không còn thấy Phật pháp là cái gì khó nuốt mà là rất sống động và thực sự có niềm vui khi đi nghe pháp.
“Tất cả thế gian pháp đều là Phật pháp”, chúng ta cần để ý đến câu kinh ấy để áp dụng trong công tác hoằng pháp của mình. Tóm lại ở đề tài này, chúng tôi chỉ trình bày những nhận thức của mình về vấn đề hoằng pháp với tuổi trẻ. Điểm qua một số nguyên lý Phật học, những vấn đề đã có sẵn trong giáo lý của đức Phật, vấn đề là làm sao chuyển tải nó cho phù hợp với nhận thức của lớp người trẻ tuổi, tương lai của dân tộc và của thế giới ngày mai, nhằm làm cho Phật pháp không bị lu mờ trong đời sống con người.
Phản hồi