Đừng cố biến Phật giáo trở thành một Tôn giáo nghèo nàn, yếm thế
Xu thế phát triển của đất nước và toàn thế giới thì việc các tôn giáo phải chuyển mình phát triển trong thời đại mới cũng là mục tiêu và nhu cầu thiết yếu. Phật giáo là tôn giáo lớn có mặt trên thế giới hàng ngàn năm, từ khi có mặt tại Việt Nam Phật giáo là tôn giáo đồng hành cùng với dân tộc trong mọi thời đại. Chủ trương của đất nước Việt Nam là xóa bỏ mọi hận thù, hòa hợp và hòa bình thịnh vượng. Tinh thần ấy của dân tộc cũng không tách rời tinh thần hòa hợp của Phật giáo.
Giữa bối cảnh của một vài vấn nạn tiêu cực đang diễn ra hiện nay do một số vị Tăng Ni lầm đường lạc lối. Nguyên nhân có thể là do tự thân họ hoặc do tác động của xã hội phát triển. Từ đó làm ảnh hưởng đến uy tín của Phật giáo, làm suy giảm niềm tin đối với tín đồ và quần chúng trong xã hội. Trong lúc đó lại xuất hiện một “hiện tượng mạng” là cơ hội cho các thế lực công kích, đánh phá Phật giáo tận dụng một cách triệt để. Bằng cách kích động tín đồ Phật giáo so sánh giữa “hiện tượng mạng” với cả một nền Phật giáo Việt Nam. Họ kêu gọi tín đồ Phật tử quay lưng với đạo Phật, với chùa chiền, không cúng dường, không hỗ trợ việc duy trì và phát triển của đạo Phật. Họ đưa ra yêu sách về đường lối tu hành, muốn Tăng Ni Phật giáo Việt Nam quay trở về thời kỳ của hàng ngàn năm trước của xã hội Ấn Độ. Với mục đích duy nhất là biến Phật giáo trở thành một tôn giáo nghèo nàn, lạc hậu, bi quan, yếm thế không phát triển, không có cơ hội đồng hành cùng dân tộc, đất nước Việt Nam.
Chúng ta biết rằng bất cứ tôn giáo nào trên thế giời này cũng cần có nguồn lực để duy trì và phát triển, không một tôn giáo nào dám tự tay vỗ ngực rằng “chúng tôi chỉ mang giá trị đạo đức, chúng tôi không cần vật chất từ tín đồ của mình”. Chắc chắn rằng giá trị đạo đức là cốt lõi của một tôn giáo nhưng để giá trị đạo đức ấy được lan tỏa, được phổ cập và được lưu truyền thì không thể không cần có vật chất. Vì cổ đức có dạy: “có thực mới vực được đạo”.
Phật giáo là một tôn giáo dựa trên tinh thần tự giác, sự tự giác ấy bắt nguồn từ niềm tin chánh tín, sự trải nghiệm để có lợi lạc cho tự thân, có ích cho gia đình và xã hội. Khi một tín đồ Phật giáo thấy tự lợi cho mình thì người ấy sẽ tự nguyện mà Phật giáo gọi là phát tâm cúng dường chứ Phật giáo chẳng quy định theo “kiểu bậc I, bậc II, bậc III” như một số tôn giáo khác. Kể cả niềm tin Phật giáo, chúng ta cũng chẳng ép buộc tín đồ phải tin, buộc phải theo với danh nghĩa “tôi là Phật tử ngoan đạo”. Phật giáo chúng ta cũng chẳng ép buộc một đứa trẻ chưa có nhận thức gì mà nó phải theo đạo Phật, hay ép buộc một người khác đạo khi kết hôn với Phật tử của mình họ phải bỏ đạo gốc để theo đạo Phật của chúng ta bao giờ. Điều đó chúng ta luôn lấy làm tự hào rằng Phật giáo tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tối thiểu của một con người theo đúng Chính sách của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của nước CHXHCN Việt Nam.
Hiện nay đạo Phật có số lượng tín đồ tại Việt Nam khoảng 20 triệu người, một con số không nhỏ. Vì sao không ép buộc mà số lượng tín đồ vẫn đông như vậy? Vì Phật giáo có giá trị cốt lõi riêng biệt và một bản chất thiết thực mà những “kẻ đứng ngoài Phật giáo” không bao giờ hiểu được. Những ai muốn hiểu rõ về bản chất của đạo Phật và điều cốt lõi của Phật giáo Việt Nam thì sẵn đây chúng tôi xin khái quát sơ lược để mọi người biết rõ vì sao ngoại đạo luôn tìm cách chống phá và muốn hủy diệt niềm tin của tín đồ Phật tử từ quá khứ đến nay nhưng Phật giáo vẫn tồn tại và phát triển.
Trước hết hãy hiểu về Thông điệp của Đức Phật và bản chất của Phật giáo.
Ngược dòng lịch sử về sự ra đời của Ðức Phật là “Một sự kiện quan trọng trong lịch sử tư tưởng nhân loại” và Ngài là “Một người được mọi người tôn kính như ánh sáng của châu Á và thế giới”. Ðúng như thế, tư tưởng của Ðức Phật Thích-ca đã tạo khuôn mẫu cho cuộc sống của hàng triệu tín đồ khắp thế giới trong khoảng 26 thế kỷ qua. Với đức tính cao quý, trí tuệ, và sự vĩ đại, Ngài được tôn vinh như một vị đạo sư vô tỷ. Ngài là một nhà truyền giáo, một vị Thầy tâm linh và cũng là nhà cải cách xã hội, nhà giáo dục vĩ đại. Chủ trương của Ðức Phật là bình đẳng, Ngài tuyên bố triết lý tự do, bình đẳng và thân thiện mới, triết lý đem lại lợi ích chung cho số đông. Một cách xác thực, Ðức Phật là người đầu tiên đả phá thành lũy đặc quyền, hệ thống giai cấp, chủ nghĩa nghi thức, cuồng tín tôn giáo, mê tín và si mê. Ngài giảng giải triết học siêu việt của tình hữu nghị và bình đẳng toàn cầu qua mọi phương diện. Do vậy, Ðức Phật là người tạo ra các giá trị đạo đức như: tự do cá nhân, khoan dung, thông cảm, từ bi, bất hại (ahimsa), nhân từ, phục vụ và hy sinh. Và điều quan trọng hơn là Đức Phật không phải là “Đấng thần quyền” có khả năng tạo ra tất cả, có cái quyền ban ơn và giáng họa cho ai.
Kế đến là tinh thần đồng hành cùng dân tộc của Phật giáo Việt Nam.
Với thông điệp khi sự ra đời của Đức Phật và bản chất của Phật giáo như trên xin khẳng định rằng Phật giáo là tôn giáo cần và đủ để hòa mình vào dòng chảy của lịch sử kiên cường của dân tộc Việt với hàng ngàn năm văn hiến, chịu biết bao đau thương vì áp bức đô hộ của ngoại bang và hứng chịu biết bao nhiêu bom đạn của chiến tranh xuất phát từ lòng tham và muốn biến dải đất này để phục vụ mục đích chính trị và kinh tế của họ. Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc này từ khi mới du nhập vào Việt Nam và rực rỡ nhất là thời Nhà Đinh, Lê, Lý, Trần cho đến tận hôm nay. Bởi vì Phật giáo Việt Nam chúng ta yêu tổ quốc, yêu dân tộc này, hơn nữa bản chất của Phật giáo là yêu chuộng hòa bình, tự do. Chúng ta cũng chẳng lệ thuộc vào một đấng siêu nhiên nào đó mà có cái quyền ban ơn giáng họa. Chúng ta cũng chẳng lệ thuộc và chịu chi phối của bất cứ “một thế lực” nào nằm ngoài đất nước Việt Nam thân yêu này, nhằm làm lung lay bản chất, giật dây để phá vỡ khối đại đoàn kết của dân tộc mình.
Chúng ta yêu tổ quốc này chứ không phải yêu bất kỳ một “tổ quốc nào ở nơi xa xăm khác”. Vì dân tộc chúng ta đã phải chịu nhiều đau thương, đứng lên từ chiến tranh máu lửa, hãnh diện với những chiến thắng hào hùng đầy khí phách Dân tộc. Và gần đây nhất là chiến thắng vô tiền khoáng hậu của mùa xuân 1975, giang sơn thu về một mối, đất nước thống nhất, Bắc Nam sum họp một nhà. Từ đó dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới, kỷ nguyên quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam, con người Việt Nam độc lập tự do, hạnh phúc và hòa bình, thịnh vượng dài lâu. Tư tưởng yêu nước là kính đạo, tin vào khả năng chính mình chứ không có một “đấng” nào có quyền ban ơn, giáng họa. Người có tín ngưỡng đạo Phật hàng ngàn năm qua vẫn cùng 54 dân tộc anh em chung sống hòa thuận mà không có một sức mạnh nào lay chuyển được. Phật giáo Việt Nam là thành viên trong khối Đại đoàn kết dân tộc luôn thể hiện vai trò quan trọng và tích cực trong sự phát triển thịnh vượng của thời đại mới.
Khi đất nước thống nhất, chủ trương Nhà nước Việt Nam là chấm dứt chiến tranh, xoá bỏ hận thù, trên tinh thần hòa hợp, hòa bình, thịnh vượng, duy trì mối quan hệ tốt đẹp với nhiều quốc gia trên thế giới. Phật giáo Việt Nam cũng đã chung tay góp phần phát triển đất nước và hội nhập trên nhiều lĩnh vực như văn hoá, đời sống,…. Thể hiện rõ nét nhất chính là sự ra đời của tổ chức GHPGVN vào năm 1981, chính là dấu ấn sáng chói trong sự nghiệp đồng hành cùng dân tộc. Lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, các tổ chức hệ phái sát nhập vào ngôi nhà chung GHPGVN với phương châm hoạt động là “Đạo Pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa Xã hội”. Lập trường quan điểm của GHPGVN chúng tôi đã thể hiện ngay lời nói đầu của Hiến chương Giáo hội: “…Sự thống nhất này xây dựng trên nguyên tắc: Thống nhất ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức, tuy nhiên, các truyền thống hệ phái cũng như các pháp môn và phương tiện tu hành đúng chánh pháp đều được tôn trọng, duy trì”.
Phật giáo đã cùng toàn dân chung tay góp phần phát triển đất nước, phục hưng mọi giá trị văn hóa dân tộc, nâng cao giá trị đời sống hạnh phúc cho mỗi người dân trong bối cảnh đất nước hòa bình, chính trị xã hội ổn định, kinh tế bước đầu phát triển mạnh mẽ. Người có tín ngưỡng Phật giáo ý thức về vị trí, vai trò, trách nhiệm của chính mình đối với công cuộc kiến thiết quốc gia, đóng góp sức mình cùng toàn dân xây dựng một đời sống hạnh phúc. Thuộc tính Phật giáo Việt Nam được xây dựng trên nền tảng hòa hợp, hòa bình. Nhờ vậy mà kết nối được sức mạnh nội tại toàn dân. Mặt khác, chúng ta áp dụng giáo lý “Chánh tư duy”, và cụ thể hóa tinh thần đồng hành cùng dân tộc bằng tinh thần tùy duyên, năng động, tích cực nhập thế trên các lĩnh vực xây dựng con người hướng thiện, ở đó có sự hoàn thiện cá nhân, có trách nhiệm với cộng đồng xã hội.
Sức mạnh tiềm ẩn của quần chúng theo Đạo Phật đã đóng góp cho công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam, trong quá khứ Phật giáo đã từng làm, ngay trong hiện tại đang thực thi và tương lai sẽ tiếp diễn không ngừng nghỉ. Khát vọng hòa bình, xây dựng quốc gia trở nên hùng cường thịnh vượng của Phật giáo đã có từ thời Nhà Trần, dưới sự lãnh đạo của Phật hoàng Trần Nhân Tông đã thể nhập tinh thần đồng hành cùng dân tộc. Phật hoàng Trần Nhân Tông nêu rõ ở việc tái thiết quốc gia rằng: “Dựng cầu đò, giồi chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu” mà trong Cư trần lạc đạo phú đã ghi rõ, và đây được coi là tuyên ngôn của Phật giáo thời Trần.
Từ khi thành lập GHPGVN đã trải qua gần 44 năm và 38 năm đất nước đổi mới, cả hai thực thể này đã gắn bó, hòa quyện thành một thực thể duy nhất để cùng nhau phát triển và hội nhập toàn cầu trên mọi lĩnh vực, trong mọi phương diện. Một mặt, Phật giáo Việt Nam không ngừng phát triển tận cùng khả năng giác ngộ giải thoát từng cá nhân để vươn lên đỉnh cao trí tuệ của con người; mặt khác, không ngừng khuyến khích Phật tử hãy tích cực đóng góp sức mình cho đời sống mọi người dân được hạnh phúc bằng cách hết lòng phục vụ đất nước, phụng sự dân tộc, lợi ích gia đình, lợi ích tự thân. Tư tưởng và triết lý của Phật giáo đã được ứng dụng và hành động cụ thể bởi GHPGVN, chư Tăng Ni Phật tử. Trách nhiệm của hàng xuất gia luôn lấy giới luật làm nền tảng, tuân thủ hiến chương và Quy chế của các Ban, Viện Trung ương Giáo hội, đặc biệt là phải thượng tôn pháp luật của Nhà nước, hướng dẫn Phật tử Việt Nam làm lợi ích cho tự thân, lợi ích cho xã hội.
Ngày nay, người Phật tử luôn biết đem đạo ứng dụng vào đời một cách hữu ích, tích cực tham gia vào các hoạt động của đời sống kinh tế, chính trị, an sinh của đất nước. Hàng Phật tử tại gia có thể là những trí thức, những nhà giáo tận tụy, những lương y như mẹ hiền, nhà kinh doanh hay kĩ sư… tùy theo sự phân công và khả năng của mình mà họ luôn sẵn lòng đóng góp tích cực trong ý niệm hòa hợp và hòa bình. Họ chính là hình tượng tiêu biểu cho mẫu người Việt Nam thời đại mới nói chung, chứ không riêng gì cho Phật giáo. Họ có thái độ sống theo tinh thần tuỳ duyên, tuỳ thời mà vì dân, vì nước chứ không vì sự giải thoát riêng mình.
Vai trò lãnh đạo của GHPGVN được mọi người dân ủng hộ, với 13 Ban, Ngành, Viện chuyên môn trực thuộc Giáo hội quản lý khởi xướng mọi kế hoạch, chương trình hành động cụ thể, mang giá trị thiết thực cao cho Phật giáo, cũng là góp phần cho quốc gia hưng thịnh, xã hội an lành. Phật giáo luôn chú trọng vào yếu tố văn hóa, yếu tố con người bằng việc ứng dụng giáo lý “duyên khởi, vô ngã, vô thường” có khả năng dung hợp, thích ứng tất cả mọi điều kiện, yếu tố, môi trường theo mọi không gian và thời gian.
Phật giáo Việt Nam luôn biết cách khai mở sức mạnh tiềm ẩn nội lực cộng sinh từ trong chiến lược đào tạo nguồn nhân lực sẵn có để đóng góp cho Giáo hội cũng là đóng góp cho đất nước Việt Nam trong thời đại mới. Bằng các chương trình đào tạo Phật học cho Tăng Ni và Phật tử như: Sơ cấp, Trung cấp, Cao đẳng, Cử nhân, Thạc sĩ, Tiến sĩ Phật học. Đây chính là nguồn nhân lực của Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ hội nhập và phát triển của đất nước. Các Tăng Ni và Phật tử sau khi tốt nghiệp các cấp chương trình Phật học đã tham gia lãnh đạo Giáo hội, hoặc các Ban, Ngành, Viện chuyên môn, cũng như làm vị thầy tâm linh hướng dẫn cho quần chúng Phật tử có nếp sống đạo, yêu đạo chính là yêu nước tuỳ theo khả năng đóng góp và sự phân công của xã hội. Phật giáo chủ trương con người là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự nghiệp, lấy trí tuệ làm sự nghiệp. GHPGVN chia sẻ nguồn tài nguyên trí tuệ bằng công tác hoằng pháp, kiến tạo nhiều chương trình an sinh xã hội, từ thiện công ích, tuệ tĩnh đường, xây cầu,…vv
Về ứng dụng kỹ thuật số, xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu Giáo hội từ cấp Trung ương đến địa phương, đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật bảo đảm an toàn, an ninh mạng, nâng cấp hạ tầng các ngành, lĩnh vực quan trọng, thiết yếu một cách đồng bộ, hiện đại, tạo điều kiện cho người Phật tử nắm bắt thông tin dữ liệu về tổ chức Giáo hội và truyền bá văn hóa Phật giáo một cách hữu hiệu trên các kênh truyền thông, nền tảng số của Phật giáo Việt Nam là minh chứng cụ thể về vấn đề kết nối truyền thông trong thời đại mới, vận hội mới của Phật giáo và của đất nước.
Trong bối cảnh đất nước phải đối diện đại dịch Covid-19, Phật giáo đã đồng hành cùng đất nước bằng sự nhận thức cao độ về việc nâng cao chất lượng sống của con người. Mỗi người dân Phật tử phải thực hiện nghiêm việc giãn cách xã hội, tuân thủ 5K. Thực hiện nhu cầu tín ngưỡng tâm linh thông qua hệ thống mạng, ứng dụng nền công nghệ kỹ thuật số. Hàng ngàn Tăng Ni, Phật tử chúng tôi đã phát tâm tình nguyện vào các khu cách ly đễ hỗ trợ người bệnh, hàng ngàn chuyến xe chở lương thực thực phẩm vào từng khu cách ly. Đây là sự đồng hành thiết thực mà Phật giáo quyết tâm thực thi hữu hiệu nhất.
Theo chủ trương của Chính phủ về vấn đề an ninh văn hóa cần được thiết lập để định hướng cho quốc gia phát triển và hội nhập toàn cầu, nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa Việt. Phật giáo Việt Nam nhận thức rõ điều này để xây dựng nền văn hóa Phật giáo trên nền tảng tiếp biến văn hóa Việt có sự tích hợp, chọn lọc và kế thừa bằng các đề án xây dựng kiến trúc chùa chiền Việt và Y phục Việt; một mặt bảo lưu, truyền thống các giá trị văn hóa Phật giáo thuần Việt mà cha ông dày công xây dựng.
Với truyền thống gắn bó sinh tử gần hai ngàn năm với dân tộc, đồng hành với dân tộc, đóng góp thiết thực cho đất nước. Và sự chuyển mình trong thời đại mới, thời đại với sự phát triển vượt bậc của nhân loại. Dưới sự lãnh đạo của GHPGVN thì mục tiêu tổng quát của Phật giáo Việt Nam chính là luôn giữ gìn phát huy sự nghiệp đồng hành cùng dân tộc trước vận hội mới, thời đại mới. Đây cũng là sự khơi dậy, sự khát vọng phát triển đất nước phồn vinh hạnh phúc mà mỗi người dân Phật tử Việt Nam hưởng ứng, đồng lòng cùng cả dân tộc thực hiện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công, vươn tầm ra thế giới trong một tương lai gần.
Vậy mong những ai chưa hiểu gì về Phật giáo đừng cố biến Phật giáo trở thành một tôn giáo nghèo nàn, yếm thế.
Phải chăng xuất phát từ lòng đố kỵ với sự đồng hành cùng dân tộc, cùng đất nước của Phật giáo hay nguyên do muốn phá vỡ khối đại đoàn kết vững chắc của dân tộc này để mưu tính những ý đồ bất chính trái ngược với lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam? Tôi nghĩ câu trả lời đó dành cho tự thân những ai đang chống phá – những thế lực trong bóng tối đang rao giảng tán thán một “hiện tượng mạng”, kích động tín đồ Phật giáo so sánh giữa một “hiện tượng mạng” với hơn 54.973 Tăng Ni, gồm: 40.807 Bắc tông; 7.028 Nam tông Khmer, 1.754 Nam tông kinh (1.100 chư Tăng, 654 Tu nữ); 5.384 Khất sĩ đang tu học, hành đạo trên đất nước này. Xin thưa, tuy tín đồ Phật tử đến với đạo Phật bằng tinh thần tự giác nhưng đại đa số họ đã được trang bị bằng Chánh Kiến và Chánh Tư duy để đủ khả năng đối diện với các thế lực chống phá Phật giáo, phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc dẫn đến gây bất ổn cho đất nước này.
Từ sự kích động, sự so sánh của tín đồ Phật tử trên các diễn đàn mạng, bằng những lời rao giảng, ca ngợi tán thán về “hiên tượng mạng” vừa qua có lẽ đây là kết quả mà những người chống phá mong muốn. Cụ thể là những người chưa có đủ niềm chánh tín, chưa từng trải nghiệm với Pháp của Phật giáo thì khiến họ quay lưng với Tam Bảo, với chùa chiền, công kích vào hàng ngũ Tăng Ni. Chúng ta đã nghĩ rằng không cần phải lên tiếng vì tinh thần từ bi của đạo Phật. Nhưng đó lại là điểm yếu mà hàng chục năm qua các thế lực thù địch vẫn nhắm Phật giáo để chống phá, xuyên tạc. Đỉnh điểm là pháp nạn của Phật giáo năm 1963 đã minh chứng cụ thể, rõ ràng cho sự đàn áp đó. Nhưng với sự đoàn kết, hoà hợp, Phật giáo đã trở thành sức mạnh vượt qua biến cố và phát triển để đồng hành cùng dân tộc đến tận ngày hôm nay.
Gần đây, họ đã đem 18.491 ngôi chùa tại Việt Nam ra chỉ trích và cho rằng đây là tài lực uổng phí nhất của đất nước. Xin thưa, những ngôi chùa, tự viện, danh lam thuộc di sản cấp quốc gia cũng chính là bộ mặt của một đất nước. Hệ thống chùa Việt được kiến thiết trên khắp mọi miền Tổ quốc đó là tiếp nối truyền thống từ xa xưa, là lịch sử, văn hoá của dân tộc. Các ngôi chùa còn là trung tâm văn hóa, giáo dục cộng đồng người Việt, nơi hội tụ sức mạnh đoàn kết toàn dân trong mọi thời đại lịch sử. Là nơi trung chuyển tấm lòng nhân ái của hàng Phật tử sẻ chia đến với những mảnh đời bất hạnh hơn trong cuộc đời này. Hơn nữa nguồn kinh phí xây dựng và phát triển của 18.491 ngôi chùa do tín đồ Phật tử phát tâm hiến cúng đã trở thành bộ áo đẹp cho chính đất nước Việt Nam thân yêu. Mọi người cũng nên biết rằng, rất nhiều những tấm lòng nơi xa, thậm chí ở hải ngoại đã góp vào công tác an sinh xã hội nước nhà thông qua chính các ngôi chùa tại Việt Nam, đó là nơi để những người con xa quê được thể hiện lòng biết ơn nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
Do đó, việc đem 54.973 Tăng Ni so sánh với một “hiện tượng mạng” lang thang, không học giáo lý, không hiểu rõ gì về Phật giáo nhưng lại yêu cầu tu sĩ Phật giáo phải thực hiện đúng như vậy mới thực sự là chân tu. Từ đó, họ cho mình cái quyền được xâm phạm vào đời sống sinh hoạt của Tăng Ni bằng việc xâm nhập vào các ngôi chùa để gài bẫy Tăng Ni một cách vô đạo đức để quay phim, chụp ảnh với mục đích bôi nhọ người xuất gia, phỉ báng Phật giáo để câu like, câu view, kiếm tiền từ những việc làm bất chính, vô đạo đức.
Từ “hiện tượng mạng” đó, những thành phần chưa hiểu biết về Phật giáo đã dựng lên như bộ phim cuộc đời Đức Phật rồi ra yêu sách đối với Phật giáo phải quay trở về thời kỳ của 2600 năm về trước. Xã hội đã phát triển vượt bậc, con người cần phải được cộng hưởng những tiện ích của khoa học kỹ thuật, y tế giáo dục, thông tin truyền thông là lẽ thường tình vậy thì thử hỏi họ lấy quyền gì mà áp đặt cho đời sống tu học, hành đạo của chư Tăng Ni phải như này, như kia. Dĩ nhiên chúng ta không phủ nhận thực trạng hiện nay có một số Tăng Ni sai phạm trong ngôn từ thuyết giảng, bằng đời sống mất kiểm soát khi đối diện với sự phát triển của xã hội. Có lối ứng xử trên không gian mạng xã hội chưa phù hợp với đời sống tu hành, nhưng đó chỉ là số người rất nhỏ so với 54.973 Tăng Ni Việt Nam. Đã là con số nhỏ thì không thể quy chụp, đánh đồng cho tất cả Tăng Ni. Một vài vị Tăng Ni có kinh doanh với mục đích tự kiếm kinh phí sinh hoạt, phát triển Phật pháp và góp phần vào công tác an sinh xã hội thì bị lên án chỉ trích, xuyên tạc một cách trắng trợn. Còn một số đạo khác mang danh chức sắc nhưng vẫn mở công ty riêng, vẫn đầu tư cổ phiếu, trái phiếu vậy mà có ai lên án chỉ trích các đâu.
Họ chẳng hiểu gì về Phật giáo nhưng suốt ngày cứ yêu cầu Tăng Ni này phải khổ hạnh, Tăng Ni kia phải theo truyền thống tu học của 26 thế kỷ về trước trong khi đó các chức sắc của các tôn giáo kia lại sở hữu siêu xe, uống rượu tây hạng sang, ăn uống thì đủ sơn hào hải vị. Trong lúc đó Tăng Ni Phật giáo ngày chỉ 2 bữa cơm chay đạm bạc, mặc áo vải thô hoại sắc, luôn nỗ lực tu học hoằng pháp, xây dựng cơ sở vật chất, hướng dẫn Phật tử tu học đúng chánh pháp thì có gì sai. Từng ngôi chùa trang nghiêm được xây dựng lên bằng tất cả tâm huyết hoằng pháp lợi sanh, là nơi cho Phật tử tu học hướng thiện. Ngôi chùa của Phật giáo chưa bao giờ là nhà riêng mà luôn là một ngôi nhà chung cho tất cả mọi người. Từ những người nghèo đói đến xin bữa cơm chay hay những người có bệnh ở tâm cần nơi điều trị. Do đó mới nói Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, Phật giáo chưa bao giờ xa rời thế gian.
Do đó, việc yêu cầu Tăng Ni phải bỏ chùa đi lang thang như “hiện tượng mạng” là việc làm vô lý. Xin thưa đến những người đang chống phá Phật giáo cùng hàng ngàn tín đồ Phật giáo chưa có đủ niềm chánh tín mà quay lưng với Tam Bảo, quay lưng với chùa chiền do bị vấy bẩn vào niềm tin qua sự kích động của hệ thống truyền thông bẩn nên biết rằng:
- Nếu áp dụng Phật giáo Ấn độ vào văn hóa dân tộc Việt Nam thì không có một Thiền sư Pháp Thuận giả làm người chèo đò để đối đáp với Sứ nhà Tống là Lý Giác khi sang phong tước hiệu cho vua Đại Hành. Người chèo đò làm cho Lý Giác phải thán phục người dân nước Nam chỉ là tên chèo đò thôi mà sự uyên bác đến thế.
- Nếu áp dụng Phật giáo Ấn độ vào văn hóa dân tộc Việt Nam thì sẽ không có một Thiền sư Vạn Hạnh nuôi dưỡng tâm hồn và chí khí của một vị Minh quân Lý Thái Tổ rồi tạo dựng một triều đại Nhà Lý hùng cường trong lịch sử. Và kinh đô Đại Việt được dời về đất Thăng Long hơn ngàn năm Văn hiến đâu!
- Nếu áp dụng Phật giáo Ấn độ vào văn hóa dân tộc Việt Nam thì sẽ không có một ông Vua Trần Nhân Tông sau khi dẹp yên bờ cõi mà tu hành trở thành Sơ tổ Trúc Lâm khai sáng ra một dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, là niềm tự hào của Phật giáo Việt Nam.
- Nếu áp dụng Phật giáo Ấn độ vào văn hóa dân tộc Việt Nam thì sẽ không có 27 nhà sư Chùa Cổ Lễ cởi áo Cà-sa khoác chiến bào để cùng quân dân giành quyền độc lập tự do cho dân tộc.
- Nếu áp dụng Phật giáo Ấn độ vào văn hóa dân tộc Việt Nam thì sẽ không có hàng ngàn Tăng Ni xung phong vào tuyến đầu chống dịch, hàng ngàn cây cầu tại các vùng quê, hàng vạn phần quà, hàng ngàn chiếc xe lăn, hàng chục tấm bảo hiểm y tế, hàng trăm ngàn ca mổ mắt miễn phí, hàng trăm xe cứu thương…với tổng kinh phí lên đến hàng ngàn tỷ đồng chia sẻ đến đồng bào có hoàn cảnh khó khăn đâu.
Đó chính là sự đồng hành cùng dân tộc, cùng đất nước của Phật giáo Việt Nam. Lịch sử đã chứng minh như vậy thì chẳng một ai có cái quyền gì mà yêu cầu Phật giáo quay ngược về thời đại của hàng ngàn năm trước, áp dụng Phật giáo Ấn Độ vào văn hóa dân tộc Việt Nam. Không có quyền gì mà bắt Phật giáo trở thành một tôn giáo nghèo nàn, bi quan yếm thế. Qua đây, người viết cũng mong rằng những người đang là Phật tử, từng khoác lên mình chiếc áo tràng lam thân thương hãy bình tâm suy nghĩ, thực hành Chánh kiến, ứng dụng Chánh Tư duy để tỉnh táo hơn, để không bị dẫn dắt bởi thế lực chống phá Phật giáo Việt Nam, chia rẽ khối Đại đoàn kết Dân tộc nhằm âm mưu đi ngược với tinh thần dân tộc Việt Nam là yêu chuộng hòa bình, tự do, cùng phát triển thịnh vượng. Cuối cùng xin trích dẫn lời của Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Thủ – cố Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN từng nói: “Những gì tôi làm lợi ích cho Đạo pháp tức là cho Dân tộc; những gì tôi làm lợi ích cho Dân tộc tức là cho Đạo pháp”.
Thích An Quang
Phản hồi