12 Lời nguyện trong kinh A Hàm

Đức Phật thị hiện trên cõi đời này vì một nhân duyên “khai thị chúng sanh, ngộ nhập Phật tri kiến”. Trên hành trình vận chuyển bánh xe Pháp, Đức Thế Tôn tùy duyên và căn cơ mỗi chúng sanh mà hóa độ. “Chúng sanh đa bệnh, Phật pháp đa phương”, trong 84 ngàn pháp môn hướng dẫn mọi người đạt đến cứu cánh giác ngộ, cầu nguyện được xem là một phương cách. Kinh Nguyện số 105 thuộc Kinh Trung A Hàm đã nêu lên 12 ước nguyện chính đáng của một hành giả tu Đạo giải thoát.

  1. Mong Đức Thế Tôn thăm hỏi, nói chuyện với ta và thuyết pháp cho ta nghe.

Sinh ra được làm thân người là khó, gặp Phật pháp lại càng khó hơn nên vị Tỳ-kheo được sinh trong thời Phật tại thế mong muốn được Đức Thế Tôn thăm hỏi, nói chuyện và thuyết pháp. Đây là cơ hội để vị Tỳ-kheo học hỏi, nương bóng mát Như Lai mà tu hành.

  1. Nhờ ta mà khi những người trong thân tộc mạng chung, họ được sanh lên cõi lành.

Theo giáo lý Đạo Phật, con người trên thế gian chịu bốn ơn lớn: Ơn cha mẹ, ơn Tam Bảo, ơn tổ quốc và ơn chúng sanh. Hơn thế nữa người xưa lại có câu: “Một người con tu đắc Đạo thì cửu huyền thất tổ được siêu thăng”. Như vậy hành giả phải hướng đến mục đích tự độ và độ tha, nhờ công đức tu tập của mình hồi hướng đến những người thân được bình an trong cuộc sống và khi mạng chung được sanh lên cõi lành.

  1. Mong các thí chủ cúng dường tứ sự cho ta: y phục, đồ ăn uống, giường nằm, thuốc thang; do nhân duyên này, họ sẽ có nhiều công đức, đại quang minh, nhiều phước báo.

Người xuất gia tu tập con đường Trung đạo là phép tu đúng đắn, không tham đắm dục lạc và cũng không khổ hạnh ép xác. Do đó mong cầu của vị Tỳ-kheo là được các thí chủ cúng dường tứ sự: y phục, đồ ăn uống, giường nằm, thuốc thang để làm phương tiện cho sự tu tập. Không dừng lại ở đó, do nhân duyên này cầu nguyện cho các thí chủ có nhiều công đức, đại quang minh, nhiều phước báo.

  1. Mong ta có thể nhẫn chịu được đói, khát, lạnh, nóng, muỗi ruồi châm chích, sự áp bức của gió, mặt trời, bị tiếng xấu, bị đánh đập, bản thân bị tật bệnh rất đau khổ, cho đến mạng sống sắp tuyệt, đối với tất cả khổ thọ, ta đều có thể kham nhẫn.

Sau khi Thành đạo, nhìn về con đường tu tập đã đi qua, Thế Tôn đúc kết thành kinh nghiệm quý giá: “Có hai lực này. Thế nào là hai lực? Nghĩa là nhẫn lực và tư duy lực. Nếu Ta không có hai lực này trọn chẳng thành Vô thượng Chánh chân Chánh đẳng giác”. Như vậy, kham nhẫn là một trong hai lực quan trọng mà người hậu học có thể xem là bí quyết để thành công trên đường đạo. Vị Tỳ-kheo mong cầu có thể nhẫn chịu được cả ba phương diện thân, khẩu, ý. Thân nhẫn là chịu đựng được các hoàn cảnh không vừa ý như đói, khát, lạnh, nóng, muỗi ruồi châm chích, sự áp bức của gió, mặt trời, bị đánh đập, bản thân bị tật bệnh rất đau khổ, cho đến mạng sống sắp tuyệt. Khẩu nhẫn là im lặng được trước các nghịch cảnh bị tiếng xấu, chửi mắng, vu oan,… Ý nhẫn là tâm nhẫn nhục đối với tất cả khổ thọ, buông xả, an định trước mọi thuận nghịch của đời sống. Tỳ-kheo mong cầu hạnh kham nhẫn như vậy là rất tích cực cho chặng đường tu tập tiếp theo. “Sự nhẫn nại là pháp tu tối thượng để giải thoát tâm khỏi những bất thiện” (Ajahn Chah).

  1. Mong ta kham nhẫn được điều không hoan lạc; nếu sanh tâm không hoan lạc, không bao giờ để đắm trước.

Nguyên liệu vận hành cỗ máy luân hồi là vô minh, tham ái. Dục vọng hoan lạc như miếng mồi ngon mà bên trong có lưỡi câu móc họng, dù được cảnh báo trước nhưng con cá vẫn không cưỡng được sự cuốn hút của miếng mồi. Cũng vậy, người nào tỉnh giác thấy được những hiểm nguy của dục lạc mà quyết tâm đoạn trừ, kham nhẫn, không bao giờ để đắm trước thì người đó có bước tiến lớn trên hành trình tu đạo. Mong cầu của vị Tỳ-kheo cho thấy quyết tâm đoạn trừ tham ái, tinh tiến tu tập.

  1. Nếu 3 niệm ác bất thiện: dục, nhuế và hại khởi lên, mong rằng ta không bao giờ để đắm trước.

Tương tự như mong cầu ở trên, dục, nhuế, hại là những niệm ác bất thiện cản trở sự tu tập của người xuất gia, tổn giảm công đức và phước báu. Do vậy, nếu Tỳ-kheo mong cầu không đắm trước và tinh tiến tu tập thì quả vị giác ngộ có thể thành tựu chứ không khó.

  1. Mong ta ly dục, ly bất thiện pháp, cho đến chứng đắc Thiền thứ tư, thành tựu và an trú.

Thiền là cốt lõi của sự hành trì đạo Giải thoát. Đức Thế Tôn trên con đường xuất gia tìm đạo cũng đã học thiền từ các vị thầy tâm linh bậc nhất ở Ấn Độ thời bấy giờ, sau đó tự mình quay trở về dưới gốc cây Sa-la, thiền định 49 ngày cho đến khi thành tựu Vô thượng Chánh Đẳng giác. Vị Tỳ-kheo mong muốn nối gót Như Lai, trải nghiệm con đường mà Thế Tôn từng đi để thành tựu, an trú, chứng đắc Thiền thứ tư.

  1. Mong ta dứt hết ba kết, chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, không bị rơi xuống pháp ác, quyết định thú hướng đến quả vị chánh giác, tối đa còn 7 lần ở cõi trời cõi người, sau 7 lần qua lại rồi liền chứng đắc khổ biên.

Quả vị giải thoát đầu tiên của một bậc Thánh là quả Tu-đà-hoàn, dứt hết ba hạ phần kết sử là thân kiến, giới cấm thủ, nghi, còn 7 lần sinh tử ở cõi trời cõi người, tiếp tục tu hành để đạt đến quả vị chánh giác.

  1. Mong ta đã dứt hết ba kết làm mỏng dâm, nộ, si, chỉ còn một lần qua lại ở cõi trời, cõi người, sau một lần qua lại, rồi liền chứng đắc khổ biên.

Vị Tỳ-kheo mong cầu chứng đắc Tư-đà-hàm, dứt hết ba kết sử, làm mỏng dâm, nộ, si, chỉ còn một lần qua lại ở cõi trời, cõi người rồi chứng đắc khổ biên (giải thoát).

  1. Mong ta dứt hết năm hạ phần kết, sanh vào thế giới Ngũ Tịnh Cư Thiên mà chứng đắc Niết-bàn, được pháp bất thối, không trở lại thế gian này.

Mong cầu của vị Tỳ-kheo là được chứng quả A-na-hàm, dứt hết năm hạ phần kết sử (thân kiến, giới cấm thủ, nghi, dục, sân), sanh vào thế giới Ngũ Tịnh Cư Thiên, được pháp bất thối, không trở lại thế gian này mà chứng đắc Niết-bàn. Quả vị này là thềm thang cuối cùng dẫn bước hành giả đạt được quả vị A-la-hán.

  1. Mong ta được tịch tịnh giải thoát, ly sắc, chứng đắc vô sắc, với như kỳ tượng định, tự thân chứng ngộ, thành tựu và an trụ; do huệ quán mà đoạn trừ lậu và biến tri lậu.

Hành giả tu tập đạt đến giác ngộ giải thoát phải trải qua con đường Giới – Định – Tuệ, nhờ tu tập Giới, sanh Định mà phát Huệ nhưng không có nghĩa là tuần tự theo tiến trình này, Giới – Định – Tuệ bổ sung, tương hỗ cho nhau, mục tiêu cuối cùng là đoạn trừ lậu, biến tri lậu mà được tịch tịnh giải thoát. Vị Tỳ-kheo mong cầu ly sắc, chứng đắc vô sắc, với như kỳ tượng định, tự thân chứng ngộ, thành tựu và an trụ; do huệ quán mà đoạn trừ lậu và biến tri lậu cũng không ngoài mục đích tu tập Giới – Định – Tuệ này, nhờ đây có thể chứng đắc tam minh, lục thông.

  1. Mong ta được như ý túc, thiên nhãn trí, tha tâm trí, túc mạng trí, sanh tử trí, các lậu hoặc đã dứt sạch, chứng đắc vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong đời này tự tri, tự giác, tự thân chứng ngộ, thành tựu và an trú, biết một cách như thật rằng: “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa”.

Câu kệ “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa” là lời tuyên bố xác nhận những ai đã hoàn toàn đoạn trừ được nguyên nhân khổ đau sanh tử luân hồi, chứng đắc vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong đời này tự tri, tự giác, tự thân chứng ngộ, thành tựu và an trú, nghĩa là đạt đến quả vị A-la-hán. Mong cầu của vị Tỳ-kheo một lần nữa chứng minh tự tính giác ngộ và khả năng thành Phật của mỗi chúng sanh là hoàn toàn có thể. Cầu nguyện của vị Tỳ-kheo lần lượt theo tiến bộ tâm linh từ thấp đến cao, từ việc cầu nguyện cho tha nhân đến cầu nguyện cho sự tu tập của chính bản thân.

Như vậy, lời dạy về mười hai ước nguyện của Đức Phật trong kinh Nguyện là một nhu cầu tinh thần chính đáng mà người tu hành cần có. Hiểu đúng về ý nghĩa cầu nguyện và điều kiện để thành tựu các ước nguyện ấy chẳng những đánh thức tâm lực, củng cố niềm tin cho mình và mọi người mà nhân quả phước báu chiêu cảm, tự tánh giác ngộ và từ bi nảy nở mỗi ngày thêm lớn. Cầu nguyện là con đường dẫn dắt chúng sanh đến với Đạo, chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó được soi sáng dưới cái nhìn từ bi và trí tuệ. Những người đang đau khổ và thiếu bình ổn về tâm hồn rất cần một điểm tựa tâm linh, mà ở đó sự cầu nguyện giúp họ vững chãi tinh thần. Cầu nguyện đi đôi với hành trì, nghĩa là tu tập Giới – Định – Tuệ thì mới có thể đoạn trừ các ác pháp, phát khởi thiện pháp mà giải thoát phiền não khổ đau. Cầu nguyện là cách để liên kết tâm của chúng ta với tâm các bậc giác ngộ, đến một lúc nâng lên thành thệ nguyện. Người có thệ nguyện lớn thì đạo tâm càng kiên cố, bước chân tu hành càng trở nên vững vàng. Vậy ngay từ bây giờ sao chúng ta không khởi tâm cầu nguyện như lời Thế Tôn chỉ dạy?

—————————————-Hết——————————————

Nguyện Pháp

 

Bài viết liên quan

Phản hồi